385 CÂU
HỎI VÀ ĐÁP VỀ HÓA HỌC VỚI ĐỜI SỐNG
Lời
nói đầu
Giáo dục thế kỉ 21 dựa trên cơ sở xây dựng xã hội
học tập với 4 trụ cột là:
- Học để biết (cốt lõi là hiểu)
- Học để làm (trên cơ sở hiểu)
- Học để cùng sống với nhau (trên cơ
sở hiểu nhau)
- Học để làm người (trên cơ sở hiểu
bản thân)
Mặt khác trước sự bùng nổ thông tin
và sự lão hoá nhanh của kiến thức con người muốn tồn tại và phát triển đều phải
học thường xuyên, học suốt đời.
Hoá
học là một khoa học nghiên cứu các chất và sự biến đổi của chúng. Các chất tạo
nên mọi vật thể của thế giới vô sinh và hữu sinh, chính chúng tạo nên cả cơ thể
chúng ta.
Hoá học chế ra những chất rắn hơn
kim cương, bền hơn sắt thép, trong hơn pha lê, đẹp hơn nhung lụa.
Cuốn
sách “385 câu hỏi và đáp về hoá học với đời sống” giúp các em học sinh
mở rộng kiến thức hoá học và nhất là tập vận dụng kiến thức để giải thích các
hiện tượng thường gặp trong đời sống, lao động sản xuất, thiên nhiên và môi
trường. Cuối sách giúp cho sự hiểu biết về hoá học của các em sâu sắc,hơn và
hữu ích hơn.
Đối
với các thầy cô giáo, cuốn sách cung cấp thêm tư liệu để cho các bài dạy học
trên lớp phong phú, sinh động hơn và hấp dẫn hơn.
Tác giả
1. Phèn chua là chất gì ?
Phèn chua là muối sunfat kép của
nhôm và kali. Ở dạng tinh thể ngậm 24 phân tử H2O nên có công thức
hoá học là K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O.
Phèn
chua còn được gọi là phèn nhôm, người ta biết phèn nhôm còn trước cả kim loại
nhôm.
Phèn
nhôm được điều chế từ các nguyên liệu là đất sét (có thành phần chính là Al2O3),
axit sunfuric và K2SO4.
Phèn
chua không độc, có vị chát chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan rất nhiều
trong nước nóng nên rất dễ tinh chế bằng kết tinh lại trong nước.
Cũng
do tạo ra kết tủa Al(OH)3 khi khuấy phèn vào nước đã dính kết các
hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành hạt đất to hơn, nặng và chìm xuống làm
trong nước.
Anh đừng bắc bậc làm cao
Phèn chua em đánh nước nào cũng trong
Phèn chua rất cần cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ
để có nước trong dùng cho tắm, giặt.
Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn gọi là
minh phàn (minh là trong sáng, phàn là phèn).
Theo y học cổ truyền thì:
Phèn chua, chua chát, lạnh lùng
Giải độc, táo thấp, sát trùng ngoài da
Dạ dày,
viêm ruột, thấp tà
Dùng liều
thật ít, thuốc đà rất hay
Phèn chua làm hết ngứa,
sát trùng vì vậy sau khi cạo mặt xong, thợ cắt tóc thường lấy một miếng phèn
chua to xoa vào da mặt cho khách.
Phèn chua dùng để bào
chế ra các thuốc chữa đau răng, đau mắt, cầm máu, ho ra máu (các loại xuất
huyết).
2. Hàn the là chất gì ?
Hàn the là chất natri tetraborat (còn gọi là borac) đông
y gọi là bàng sa hoặc nguyệt thạch, ở dạng tinh thể ngậm 10 phân tử H2O
(Na2B4O7.10H2O). Tinh thể trong
suốt, tan nhiều trong nước nóng, không tan trong cồn 900.
Trước đây người ta thường dùng hàn the làm chất phụ gia
cho vào giò lụa, bánh phở, bánh cuốn… để cho những thứ này khi ăn sẽ cảm thấy
giai và giòn. Ngay từ năm 1985 tổ chức thế giới đã cấm dùng hàn the làm chất
phụ gia cho thực phẩm vì nó độc, có thể gây sốc, trụy tim, co giật và hôn mê.
Natri tetraborat tạo thành hợp chất màu với nhiều oxit
kim loại khi nóng chảy, gọi là ngọc borac.
Trong tự nhiên, borac có ở dạng khoáng vật tinkan, còn
kenit chứa Na2B4O7.4H2O. Borac dùng
để sản xuất men màu cho gốm sứ, thuỷ tinh màu và thuỷ tinh quang học, chất làm
sạch kim loại khi hàn, chất sát trùng và chất bảo quản, chất tẩy trắng vải sợi.
Hàn the còn được dùng để bào chế dược phẩm.
Theo đông y, hàn the có vị ngọt mặn, tính mát dùng hạ
sốt, tiêu viêm, chữa bệnh viêm họng, viêm hạnh nhân hạch, sưng loét răng lợi.
Hàn the ngọt, mặn, mát thay
Tiêu
viêm, hạ sốt, lại hay đau đầu
Viêm
họng, viêm lợi đã lâu
Viêm hạch, viêm mắt thuốc đâu sánh bằng.
Tây y dùng dung dịch axit boric loãng làm nước rửa mắt,
dùng natri tetraborat để chế thuốc chữa đau răng, lợi.
3. Mì chính (bột
ngọt) là chất gì ?
Mì chính là muối natri của axit glutaric, một amino axit tự nhiên, quen thuộc và quan trọng. Mì
chính có tên hoá học là monosodium glutamat, viết tắt là MSG. MSG có trong thực
phẩm và rau quả tươi sống ở dạng tự do hay ở dạng liên kết với protein hoặc
lipít. Tuy ở hàm lượng thấp, song chức năng của nó là một gia vị, tăng vị cho
thực phẩm, làm nổi bật sự tươi sống, còn trong chế biến làm tăng sự ngon miệng.
Người Hoa (và nhiều dân tộc Châu Á) đã lợi dụng chức năng này trong kĩ xảo ẩm
thực để chế biến các món ăn thêm phần ngon miệng trong các nhà hàng Trung Quốc.
Bản thân MSG không phải là một vi chất dinh dưỡng và chỉ có MSG tự do dạng đồng
phân L mới là chất tăng vị, còn ở dạng liên kết với protein và lipit thì không
có chức năng này. Những thức ăn giàu protein như sữa, thịt, cá… chứa nhiều MSG
dạng liên kết. Ngược lại ở rau, quả, củ lại tồn tại ở dạng tự do như nấm có 0,18%, cà chua 0,14%, khoai tây 0,1%.
Người Nhật lúc đầu phân lập MST từ tảo biển, còn ngày
nay MSG được tổng hợp bằng công nghệ lên men.
Mì chính là một gia vị nhà hàng, đôi khi hỗ trợ cho một
kĩ thuật nấu ăn tồi, thường bị lạm dụng về liều lượng.
Đã có những phát hiện về di chứng của bệnh ăn nhiều mì
chính mà người ta gọi là “hội chứng hiệu ăn Tàu”: Nhẹ thì có cảm giác ngứa ran
như kiến bò trên mặt, đầu hoặc cổ có cảm giác căng cứng ở mặt. Nặng thì nhức
đầu, chóng mặt, buồn nôn.
Như vậy mì chính có độc hại không? Đã không ít lần MSG
được đem ra bàn cãi ở các tổ chức lương nông thế giới (FAO) Y tế thế giới
(WHO). Uỷ ban chuyên gia về phụ gia thực phẩm (JECFA). Lần đầu tiên (1970) được quy định rằng lượng MGS sử
dụng an toàn hàng ngày là 0 ®120mg/kg
thể trọng, không dùng cho trẻ em dưới 3 tháng tuổi. Năm 1979 lại được quy định
tăng lên là - 150mg/kg thể trọng. Tới năm 1986 JECFA lại xem xét lại và xác
định là MSG “không có vấn đề gì”.
Tóm lại, MSG là an toàn trong liều lượng cho phép. Điều
đáng lưu ý là mì chính không phải là vi chất dinh dưỡng mà chỉ là chất tăng vị
mà thôi
4. Sô đa là chất là
gì ?
Ngày từ thời cổ xưa, người ta đã biết đến thuỷ tinh và
xà phòng. Để sản xuất ra chúng ta, phải dùng natri cacbonat (sôđa) khai thác
trên bờ của những hồ sôđa ở Châu Phi và châu Mỹ hoặc thu được từ tro của những
loài thực vật mọc dưới biển và bờ biển ở châu Âu. Khoảng 150 năm về trước, sô
đa bắt đầu được sản xuất bằng phương pháp công nghệ. Một người Pháp tên là
LơBlan đã tìm ra qui trình đầu tiên sản xuất sô đa. Nhưng từ năm 1870, phương
pháp của người Bỉ tên là Solvay có lợi nhuận lớn hơn đã đẩy lùi được phương
pháp của Lơ Blan và năm 1916; nhà máy cuối cùng sản xuất theo phương pháp này
đã bị đóng cửa.
Sôđa có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân. Nó được dùng để sản xuất các chất tẩy rửa và chất làm sạch trong công
nghiệp thuỷ tinh và công nghiệp dệt. Trong ngành luyện kim, người ta dùng nó để
tách lưu huỳnh ra khỏi sắt và thép; sôđa
được dùng trong sản xuất natri silicat, natri photphat và natri
aluminat, men sứ, sơn dầu và công nghiệp dược phẩm. Công nghiệp da, cao su,
đường; sản xuất thực phẩm, vật liệu nhiếp ảnh cũng cần đến sôđa. Nó là thành
phần không thể thiếu trong việc làm sạch nước !
5. Sợi hoá học là gì
?
Sợi hoá học là sợi tạo thành từ các chất hữu cơ thiên
nhiên và các polime tổng hợp.
Sợi hoá học chia làm hai nhóm lớn: sợi nhân tạo và sợi
tổng hợp. Sợi nhân tạo thu được khi chế biến hoá học các polime tạo sợi, thu
được nhờ tổng hợp hoá học. Các loại sợi poliamit, polieste, polipropilen và
nhiều sợi khác nữa như capron, nilon, lavsan,v.v… là sợi tổng hơp.
Sợi nhân tạo ra đời trước sợi tổng hợp. Ngay từ năm
1853, ở Anh người ta đã đề xuất việc tạo sợi mảnh dài vô tận từ dung dịch
nitroxenluloza trong hỗn hợp rượu và ete. Người ta đã sản xuất các loại sợi này
trên quy mô công nghiệp, cách đây không lâu lắm vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ
XX. Tơ visco, sản xuất từ năm 1905, đến nay vẫn chưa mất ý nghĩa. Sợi visco thu
được từ dung dịch xenluloza đậm đặc trong xút loãng. Từ năm 1910 đến 1920,
người ta tiến hành sản xuất công nghiệp từ xenlulozơ axetat.
Lịch sử sợi tổng hợp bắt đầu năm 1932. Lúc đó, ở Đức bắt
đầu sản xuất công nghiệp sợi tổng hợp đầu tiên là polivinylclorua dùng vào mục
đích kỹ thuật. Khi clo hoá tiếp polivinylclorua ta được nhựa peclovinyl,
từ đó có thể sản xuất ra loại sợi bền về
mặt hoá học: sợi clorin. Năm 1930, người ta bắt đầu sản xuất sợi từ nhựa
poliamit, là polime tổng hợp tương tự protein. Trong phân tử của chúng, cũng
giống như trong protein, có các nhóm amit- CO-NH- lặp lại nhiều lần. Các sợi
poliamit đầu tiên là nilon và capron, về một số tính chất còn tốt hơn cả tơ
thiên nhiên. Những sợi tổng hợp có bản chất hoá học khác như polieste,
poliolefin (trên cơ sở trùng hợp etylen),v.v… cũng xuất hiện.
Vê nguyên lý, công nghệ sản xuất sợi tổng hợp là đơn
giản: đùn khối nóng chảy hoặc dung dịch polime qua những lỗ rất nhỏ của khuôn
kéo vào một buồng chứa không khí lạnh, tại đây, quá trình đóng rắn xảy ra, biến
dòng polime thành sợi. Bằng cách đó, ta thu được sợi capron và nilon.
Chỉ tơ hình thành liên tục được cuốn vào ống sợi.
Nhưng không phải tất cả các loại sợi hoá học đều được
sản xuất đơn giản như vậy. Quá trình đóng rắn sợi axetat xảy ra trong môi
trường không khí nóng, để đóng rắn chỉ tơ của sợ visco và một loại sợi khác lại
xảy ra trong các bể đông tụ chứa các hoá chất lỏng được chọn lọc đặc biệt.
Trong quá trình tạo sợi, trên các ống sợi người ta còn kéo căng để các phân tử
polime dạng chuỗi trong sợi có một trật tự sắp xếp chặt chẽ hơn (sắp xếp song
song nhau). Khi đó, lực tương tác giữa các phân tử tăng lên làm độ bền cơ học
của sợi cũng tăng lên. Nói chung, tính chất của sợi chịu ảnh hưởng của nhiều
yếu tố khác nhau như thay đổi tốc độ nén ép, thành phần và nồng độ các chất
trong bể đông tụ, nhiệt độ của dung dịch kéo sợi và của bể đông tụ (hoặc buồng
không khí), thay đổi kích thước lỗ của khuôn kéo. Lỗ càng nhỏ thì sợi càng mảnh
và lực bề mặt sẽ càng ảnh hưởng nhiều đến tính chất của vải làm từ sợi này. Để
tăng những lực đó, người ta thường dùng các khuôn kéo với lỗ có tiết diện hình
sao.
Đối với các chuyên gia dệt thì độ dài kéo đứt, do sợi bị
đứt dưới tác dụng của trọng lượng chính nó, được xem như một đặc trưng quan
trọng về độ bền của sợi. Với sợi bông thiên nhiên, độ dài đó thay đổi từ 5 đến
10km, tơ axetat từ 30 đến 35km, sợi visco tới 50 km, sợi polieste và poliamit
còn dài hơn nữa. Chẳng hạn với sợi nilon loại cao cấp, độ dài kéo đứt lên tới
80km.
Sợi hoá học đã thay thế một cách có kết quả các loại sợi
thiên nhiên là tơ, len, bông và không ít trường hợp vượt các loại sợi thiên
nhiên về chất lượng.
Sản xuất sợi hoá học
có tầm quan trọng lớn lao đối với nền kinh tế quốc dân, góp phần nâng cao phúc
lợi vật chất cho con người và có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng
của nhân dân về các mặt hàng thông dụng:
vải, các sản phẩm dệt kim và tơ lông nhân tạo.
6. Saccarin là chất
gì ?
Là chất tinh thể không màu có vị ngọt, ít tan trong
nước. Được điều chế từ toluen. Saccarin thương mại là tinh thể muối natri ngậm
nước của saccarin, ngọt hơn đường 500 lần. Dùng thay cho đường khi có bệnh tiểu
đường. Cơ thể không hấp thụ được saccarin.
![]() |
7. Thần sa là chất gì ?
Là khoáng vật thuỷ ngân sunfua HgS, nguyên liệu chủ yếu
để sản xuất thuỷ ngân.
8. Cholesterol là
chất gì?
Là một sterol chính có phổ biến trong mô người, động vật
và một số thực vật, dưới dạng tự do hay este với axit béo mạch dài là chất cần
thiết cho cơ thể (thành phần của protein, huyết thanh, màng tế bào, chất tạo
homon giới tính, axit mật…) nhưng nếu có nhiều cholesterol trong máu sẽ tạo
điều kiện cho chất béo giàu axit béo no bám vào thành trong của động mạch đến
mức có thể ngăn máu không lưu thông.
9. ADN là chất gì ?
Là những axit nucleic và có
phân tử khối lên tới hàng chục triệu đvc (hay u).
ADN là thành phần chủ yếu của nhiễm sắc thể trong nhân
tế bào của phần lớn sinh vật, có vai trò quyết định những đặc trưng di truyền
bằng cách điều chỉnh sự tổng hợp protein trong tế bào.
10. Quả ớt và hạt
tiêu chứa chất cay là chất gì ?
Chúng có những loại ancaloit khác nhau. Ancaloit là loại
hợp chất hữu cơ có chứa nitơ có tính bazơ, thường có nguồn gốc thực vật, đa số
có cấu trúc phức tạp, thường là các chất dị vòng.
Ancaloit trong ớt có tên là capsicain. Chất này pha loãng 10 vạn lần vẫn
còn rất cay.
Ancaloit trong hạt tiêu là hai chất có tên là chavixin
và piperin. Chất chavixin tạo ra vị cay hắc của hạt tiêu.
11. Cồn khô là chất
gì ?
Ở các nhà hàng thường dùng loại cồn khô để đốt thay cho
bếp ga khi ăn các món lẩu. Đó chính là cồn được cho vào một chất hút dịch thể,
loại bột này hiện được sản xuất vì nhiều mục đích khác nhau: cho vào tã lót,
cho vào đất chống trạng thái hạn hán kéo dài, cho vào cồn… thí dụ chất
norsocryl của hãng Snow Business có thể biến một lượng dung dịch có trọng lượng
lớn hơn chất này tới 500 lần thành chất khô.
12. Cloramin là chất gì mà sát trùng được nguồn nước
?
Là chất NH2Cl và NHCl2. Khi hoà tan cloramin vào nước sẽ
giải phóng ra clo. Clo tác dụng với nước tạo ra HOCl.
Cl2 + H2O ® HOCl + HCl
HOCl có phần tử rất nhỏ,
dễ hấp thụ trên màng sinh học của vi sinh vật, phá huỷ protein của màng, cản
trở tính bán thâm của màng, thay đổi áp suất thẩm thấu của tế bào và làm chết
vi khuẩn, nấm.
HOCl có tính oxi hoá rất
mạnh nên phá hoại hoạt tính một số enzim trong vi sinh vật, gây chết cho vi
sinh vật.
Cloramin không gây độc
hại cho người dùng nước đã được khử trùng bằng chất này.
13.
Bột giặt gồm những chất gì ?
Bột giặt là hỗn hợp dạng
bột, xốp bao gồm chất tẩy rửa tổng hợp, chất hoạt động bề mặt cao (thí dụ natri
đođexylbenzen sunfunat) sô đa, các phụ gia (tripoliphotphat, cacboximetyl
xenlulozơ) chất tẩy trắng, chất thơm...
14.
Bột tẩy là chất gì ?
Là clorua vôi Ca(OCl)2.CaCl2.8H2O,
hoặc biểu diễn thành phần chính là CaOCl2. Chất bột trắng, mùi clo,
phân huỷ trong nước và trong axit, điều chế bằng cách cho clo tác dụng với vôi
tôi.
2Ca(OH)2+ 2Cl2 ® Ca(OCl)2+ CaCl2+
2H2O
15.
Nước Boocđo là gì ?
Là hồn hợp dung dịch
đồng sunfat và sữa vôi, dùng làm chất diệt nấm cho cây trồng, nhất là cho cà
chua, nho (chữa bệnh xoăn lá do nấm)
16. Nước cường toan là gì ?
Là hỗn hợp gồm một thể tích dung dịch axit nitric đặc và
3 thể tích dung dịch axit clohidric đặc. Có tính oxi hoá mạnh, hoà tan được
vàng, bạch kim và hợp kim không tan trong các dung dịch axit vô cơ thông
thường.
17. Nước đá khô là gì
?
Là cacbon đioxit CO2ở
dạng rắn, khi bay hơi thu nhiệt rất lớn, làm hạ nhiệt độ của môi trường xung
quanh. Dùng bảo quản thực phẩm khi chuyển đi xa.
18. Dầu chuối là chất
gì ?
Dầu chuối là este của axit axetic và rượu amylic.
Dầu chuối có công thức là CH3COOC5H11
19. Thạch aga - aga
là chất gì ?
Aga - aga (chữ Malaixia nghĩa là rong) là hỗn hợp chất tách
ra từ một số loại rong biển, thành phần chủ yếu là polisaccarit (70%). Dung
dịch 0,5 - 1,5% trong nước sôi, khi nguội đông tụ lại thành thạch aga - aga
được dùng trong hoá học, vi sinh học, công nghiệp thực phẩm (làm mứt, kẹo
viên…)
20. Amiăng là chất gì
?
Đó là khoáng chất dạng sỏi, có thành phần hoá học là silicat của
magic, canxi và một số kim loại khác. Amiăng bền với axit, chịu nhiệt, có thể
kéo thành sợi, dệt vải may quần áo chống cháy, dùng làm vật liệu cách nhiệt,
cách điện, vật liệu xây dựng như xi măng amiăng. Hiện nay nhiều nước cấm dùng
vì chất này có thể gây bệnh ung thư và bệnh phổi.
21. Apatit là chất gì
?
Apatit là khoáng chất
chứa photpho có công thức chung là Ca5X (PO4)3
(X là F, Cl hay OH) phổ biến nhất là floapatit. Ở tỉnh Lào Cai nước ta trữ
lượng apatit lên tới hàng tỉ tấn, Apatit là nguyên liệu chính để sản xuất phân
lân, phot pho (dùng trong quốc phòng, làm diêm, thuốc trừ sâu), axit photphoric
22.Cao su là gì ?
Cao su là vật liệu có
tính đàn hồi (đặc tính có thể biến dạng khi chịu lực bên ngoài tác dụng nhưng
lại trở lại hình dạng ban đầu khi lực tác dụng không còn). Cao su có thể bị kéo
dãn gấp 10 lần chiều dài ban đầu. Tính đàn hồi của cao su là do tính linh hoạt
của các phân tử trong mạch polime. Tuy nhiên trong thực tế, cao su là hỗn hợp
các polime, nên nếu lực ngoài tác động quá mạnh thì cao su mất hoàn toàn tính
đàn hồi. Vào năm 1839, nhà hoá học Mĩ Charles Goodyear đã phát minh ra kĩ thuật
lưu hoá cao su có tác dụng làm tăng đặc tính cơ lí của cao su, do đó mở rộng
rất nhiều khả năng ứng dụng của nó.
Cao su thiên nhiên là
poli-cis-isopren được lấy chủ yếu từ cây cao su (Hevea barasiliensis) được
trồng nhiều ở Nam Mĩ. Cây cao su được trồng ở nước ta từ năm 1887 và hiện nay
được trồng tập trung ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ.
Cao su tổng hợp (Cao su Buna, cao su
Buna-S, …) được phát triển mạnh từ chiến
tranh thế giới lần II do sự khan hiếm cao su thiên nhiên. Hầu hết các cao su
tổng hợp đều là sản phẩm của công nghiệp dầu mỏ.
23.
Teflon là chất gì ?
Teflon
có tên khoa học là politetrafloetilen (-CF2-CF2-)n.Đó là
loại polime nhiệt dẻo, có tính bền cao với các dung môi và hoá chất. Nó bền
trong khoảng nhiệt độ rộng từ - 1900C đến + 3000C, có độ
bền kéo cao (245 - 315kg/cm3) và đặc biệt có hệ số ma sát rất nhỏ và
độ bền nhiệt cao, tới 4000C mới bắt đầu thăng hoa, không nóng chảy,
phân huỷ chậm. Teflon bền với môi trường hơn cả vàng và
platin, không dẫn điện.
Do có các đặc tính
quí đó, teflon được dùng để chế tạo những chi tiết máy dễ bị mài mòn mà không
phải bôi mỡi (vì độ ma sát nhỏ), vỏ cách điện, tráng phủ lên chảo, nồi… để
chống dính.
24. Chất màu azo là chất gì ?
Từ phenyl amin (anilin) và các
arylamin khác, người ta tổng hợp được một loạt (hàng trăm nghìn) chất màu azo
làm phần nhuộm khác nhau có công thức chung là : Ar - N = N-Ar
Tuỳ
theo cấu trúc của các gốc aryl (phenyl, naphtyl...) nối với nhóm azo - N = N -
mà có được các chất màu azo có màu sắc đỏ, xanh, tím hay vàng khác nhau... đẹp,
bền.
Để
tổng hợp chất màu azo, người ta cho một arylamin phản ứng với HNO2HCl
ở 0 - 50C thành arylamonihalogenua, rồi phản ứng tiếp với một aren
hoạt động (aren có nhóm thế loại một). Ngoài hợp chất màu monoazo (có một nhóm
azo) còn có thể tổng hợp các chất màu đi azo (có hai nhóm azo), tri azo (có ba
nhóm azo)...
25. Sợi thuỷ tinh và sợi quang là gì ?
a- Khi kéo thuỷ tinh
nóng chảy qua một thiết bị có nhiều lỗ nhỏ, ta được những sợi có đường kính từ
2 đến 10 mm (1 micromet = 10-6m) gọi
là sợi thuỷ tinh.
Bằng phương pháp li
tâm hoặc thổi không khí nén vào dòng thuỷ tinh nóng chảy, ta thu được những sợi
ngắn gọi là bông thuỷ tinh. Sợi thuỷ tinh không giòn và rất dai, có độ chịu
nhiệt, độ bền hoá học và độ cách điện cao, độ dẫn điện thấp.
Nguyên liệu để sản
xuất sợi thuỷ tinh dễ kiếm, rẻ tiền, việc sản xuất khá đơn giản, nên hiện nay
được dùng rộng rãi trong các lĩnh vực kĩ thuật khác nhau: sản xuất chất dẻo
thủy tinh: làm vật liệu lọc; chế tạo vật liệu cách điện: may áo bảo hộ lao động
chống cháy, chống axit; lót cách nhiệt cho các cột chưng cất: làm vật liệu liên
kết trong chế tạo máy, xây dựng; chế tạo sợi quang v.v..
b- Sợi quang, còn gọi
là sợi dẫn quang, là loại sợi bằng thuỷ tinh thạch anh được chế tạo đặc biệt,
có độ tinh khiết cao, có đường kính từ vài micromet đến vài chục micromet. Do
có cấu tạo đặc biệt, nên sợi quang truyền được xung ánh sáng mà cường độ bị suy
giảm rất ít. Sợi quang được dùng để tải thông tin đã được mã hoá dưới dạng tín hiệu xung laze. Một cặp sợi
quang nhỏ như sợi tóc cũng có thể truyền được 10000 cuộc trao đổi điện thoại
cùng một lúc. Hiện nay, sợi quang là cơ sở cho phương tiện truyền tin hiện đại,
phát triển công nghệ thông tin, mạng internet điều khiển tự động, máy đo quang
học v.v…
Cáp quang là các sợi
quang được bọc các lớp đồng, thép và nhựa.
26. Thuốc chuột là
chất gì ?
Tại sao những con chuột sau khi ăn thuốc chuột lại đi tìm nước uống.
Vậy thuốc chuột là gì ? Cái gì đã làm chuột chết ? Nếu sau khi ăn thuốc mà
không có nước uống nó chết mau hơn hay lâu hơn ?
Thuốc chuột là Zn3P2
sau khi ăn Zn3 P2 bị thuỷ phân rất mạnh, hàm lượng nước
trong cơ thể chuột giảm, nó khát và đi tìm nước:
Zn3P2
+ 6H2O ® 3Zn(OH)2+
2PH3
Chính PH3 đã
giết chết chuột.
Càng nhiều nước đưa
vào ® PH3 thoát ra càng nhiều ® chuột càng nhanh chết. Nếu không có nước chuột chết lâu hơn.
27. 2,4-D, 2,4,5-T và
Đioxin là những chất gì ?
Vào khoảng những năm
1940 - 1948 người ta phát hiện thấy rằng axit 2,4 - điclophenoxiaxetic (2,4-D)
, axit 2,4,5 -triclophenoxiaxetic (2,4,5-T) ở nồng độ cỡ phần triệu có tác dụng
kích thích sự sinh trưởng thực vật nhưng ở nồng độ cao hơn chúng có tác dụng
tiêu diệt cây cỏ. Từ đó chúng được sản xuất ở quy mô công nghiệp dùng làm chất
diệt cỏ phát quang rừng rậm. Trong quá trình sản xuất 2,4-D và 2,4,5-T luôn tạo
ra một lượng nhỏ tạp chất là đioxin. Đó là một chất cực độc, tác dụng ngay ở
nồng độ cực nhỏ (cỡ phần tỉ) , gây ra những tai hoạ cực kì nguy hiểm (ung thư,
quái thai, dị tật…).
![]() |
![]() |
||||
![]() |
|||||
Trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam , Đế quốc Mĩ rải xuống
Miền Nam nước ta hàng vạn tấn chất độc màu da cam trong đó chứa 2,4-D , 2,4,5-T
và đioxin mà hậu quả của nó vẫn còn cho đến ngày ngay.
28. Đen ailin là chất gì ?
Trang phục màu đen được nhiều người ưa chuộng.
Chất màu đen để nhuộm vải
có nhiều loại, trong đó có “đen anilin”. “Đen anilin” được điều chế trực tiếp
trong thùng nhuộm vải hoặc sợi, vì nó không tan trong nước. Để điều chế “đen
anilin”, người ta cho anilin tác dụng với chất oxi hoá mạnh như KClO3,
K2Cr2O7 với chất xúc tác là muối sắt hay đồng.


Polimetyl
là loại
chất dẻo nhiệt, rất bền,
cứng, trong suốt. Do đó được gọi là thuỷ tinh hữu cơ hay plexiglas. Plexiglas
không bị vỡ vụn khi va chạm và bền với nhiệt. Nó cũng bền với nước, axit, bazơ,
xăng, ancol, nhưng bị hoà tan trong benzen, đồng đẳng của benzen, este và
xeton. Phân tử khối của plexiglas có thể tới 5.106. Plexiglas có
khối lượng riêng nhỏ hơn thuỷ tinh silicat, dễ pha màu và dễ tạo dáng ở nhiệt
độ cao.
Với những tính chất
ưu việt như vậy plexiglas được dùng làm kính máy bay, ô tô, kính trong các máy
móc nghiên cứu, kính xây dựng, đồ dùng gia đình, trong y học dùng làm răng giả,
xương giả, kính bảo hiểm… Nhiều cơ sở vật liệu xây dựng coi thuỷ tinh hữu cơ là
thuỷ tinh kim loại.
Nhiều nước sản xuất
thuỷ tinh hữu cơ với những tên khác nhau: acripet (Nhật), điakon (Anh),
impelex(Mĩ) veđril (Ý)
30. Tuyết nhân tạo
làm từ chất gì ?
Khi giả làm tuyết rơi ở rạp hát hay
phim trường, giới kĩ xảo đều dùng tuyết nhân tạo bằng chất dẻo. Tuy nhiên, khi
xong việc, họ không thể thu gom hết chúng, nhất là trên các bậu cửa, dẫn đến ô
nhiễm môi trường. Các nhà hoá học Đức đã tạo ra một loại tuyết mới, rất dễ phân
huỷ, vì làm từ…tinh bột khoai tây.
Sản phẩm này là của
Frithjof Baumann và cộng sự ở Viện công nghệ Hoá học Fraunhofer ở Karlsruhe
(Đức). Để làm ra nó, người ta có thể dùng tinh bột khoai tây, ngô, thậm chí tảo
biển. Khi được phun vào trong không khí, loại tinh bột này hoá thành một dạng
bọt xốp, trông giống như tuyết. Tuy nhiên đến lúc này, Baumann vẫn chưa thể làm
cho tuyết giả rơi dưới dạng bông, mà chỉ có thể mô phỏng cách rơi của các cụm
tuyết lớn. vì thế nhóm nghiên cứu vẫn đang tiếp tục cải tiến nó.
Khi được dấp ẩm vừa
phải, tuyết khoai tây sẽ dính kết với nhau vừa đủ để đắp người tuyết hay tạo ra
các cột băng, còn khi phun đẫm nước, chúng sẽ tan ra. Trong không khí loại
tuyết này rơi rất đẹp, nhưng nó không hiện ra trên mặt đất, vì quá nhẹ.
Các nhà nghiên cứu
của viện Fraunhofe đã thử nghiệm chúng trong nhà hát quốc gia ở Karlsruhe, và
cung cấp 5 tấn tuyết cho một chương trình khoa học giả tưởng trên ti vi, có tên
gọi là hành tinh băng giá.
31. Chất gây nghiện
là những chất gì ?
Ma tuý dù ở dạng nào khi đưa vào cơ thể con người có thể làm thay
đổi một hay nhiều chức năng sinh lí.
Hoá học đã nghiên cứu
làm rõ thành phần hoá học của những chất ma tuý tự nhiên, ma tuý nhân tạo và
tác dụng sinh lí của chúng. Từ đó sử dụng chúng như là một loại thuốc chữa bệnh
hoặc ngăn chặn tác hại của các chất gây nghiện.
Ma tuý gồm những chất
bị cấm như thuốc phiện, cần sa, heroin, cocain, một số thuốc được dùng theo chỉ
dẫn của thầy thuốc như moocphin, seduxen, những chất hiện nay chưa bị cấm sử
dụng như thuốc lá, rượu…
Ma tuý có tác dụng ức
chế, giảm đau, kích thích mạnh mẽ hoặc gây ảo giác.
Ma tuý được phân loại
theo nguồn gốc tự nhiên hay nhân tạo hoặc theo mức độ gây nghiện. Sau đây xin
giới thiệu một số chất gây nghiện phổ biến.
· Rượu:Tuỳ thuộc nồng độ và cách sử dụng,
rượu có thể tác dụng tốt hoặc làm suy yếu nghiêm trọng sức khoẻ con người. Với
nhiều người, uống một lượng nhỏ rượu cũng dẫn đến phản ứng chậm chạp, xử trí
kém linh hoạt, thần kinh dễ bị kích động gây ra những trường hợp đáng tiếc như
tai nạn, hành động bạo ngược…Trong rượu thường chứa một chất độc hại là etanal
CH3-CHO, gây nôn nao khó chịu, nếu nồng độ cao có thể dẫn đến tử
vong.
· Nicotin:( C10H14N2)
có nhiều trong cây thuốc lá. Nó là chất lỏng sánh như dầu, không màu, có mùi
thuốc lá, tan được trong nước. Khi hút thuốc lá, nicotin thấm vào máu và theo
dòng máu đi vào phổi. Nicotin là một trong những chất độc mạnh (từ 1 đến 2 giọt
nicotin có thể giết chết một con chó), tính độc của nó có thể sánh với axít
xianhiđric HCN. Nicotin chỉ là một trong số các chất hoá học độc hại có trong
khói thuốc lá (trong khói thuốc lá có chứa tới 1400 hợp chất hoá học khác
nhau). Dung dịch nicotin trong nước được dùng làm thuốc trừ sâu cho cây trồng.
Những người nghiện thuốc lá thường mắc bệnh ung thư phổi và những bệnh ung thư
khác.
· Cafein :( C8H10N4O2)
có nhiều trong hạt cà phê, lá chè. Cafein là chất kết tinh không màu, vị đắng,
tan trong nước và rượu. Cafein dùng trong y học với lượng nhỏ có tác dụng gây
kích thích thần kinh. Nếu dùng cafein quá mức sẽ gây bệnh mất ngủ và gây
nghiện.
· Moocphin: Có trong cây thuốc phiện, còn gọi là cây anh
túc. Moocphin có tác dụng làm giảm hoặc mất cảm giác đau đớn. Từ moocphin lại
tinh chế được heroin có tác dụng hơn moocphin nhiều lần, độc và rất dễ gây
nghiện.
· Hassish:là hoạt chất có trong cây cần sa còn gọi là bồ đà
có tác dụng chống co giật, chống nôn mửa nhưng có tác dụng kích thích mạnh và
gây ảo giác.
· Thuốc an thần như là seduxen,
meprobamat… có tác dụng chữa bênh, gây mất ngủ, dịu cơn đau nhưng có tác dụng
gây nghiện.
· Amphetamin : Chất kích thích hệ thần
kinh dễ gây nghiện, gây choáng, rối loạn thần kinh nếu dùng thường xuyên.
Nghiện ma tuý sẽ dẫn
đến rối loạn tâm, sinh lí. Thí dụ như: rối loạn tiêu hoá, rối loạn chức năng
thần kinh, rối loạn tuần hoàn, hô hấp. Tiêm chích ma tuý gây truỵ tim mạch dễ
dẫn đến tử vong.
Do đó, để phòng chống
ma tuý, không được dùng một số thuốc chữa bệnh quá liều chỉ định của bác sĩ,
không sử dụng thuốc khi không biết tính năng tác dụng và luôn nói không với ma
tuý.
32. Nham thạch do núi
lửa phun ra là chất gì ?
Bên dưới vỏ trái đất là lớp dung nham gọi là macma, ở độ sâu từ 75
km đến khoảng gần 3000 km. Nhiệt độ của lớp dung nham này rất cao (2000 - 25000C)
và áp suất rất lớn (tới 1,4 triệu atmotphe). Khi vỏ trái đất vận động mạnh ở
những nơi có cấu tạo mỏng, có vết đứt gãy thì lớp dung nham này phun ra ngoài
sau một tiếng nổ lớn.
Macma cấu tạo ở dạng
bán lỏng gồm silicat của sắt, của magiê. Dung nham thoát ra ngoài sẽ nguội dần
và rắn lại tạo thành nham thạch.
33. Nguyên tố đất
hiếm là gì ?
Đó là 14 nguyên tố hoá học xếp ở phía dưới của bảng tuần hoàn. Gọi
là đất hiếm vì các oxit của chúng rất giống với các oxit khác trong đất, đồng
thời chỉ có một số ít các nước có nguồn nguyên liệu chứa các nguyên tố này. Hơp
chất của các nguyên tố đất hiếm ngày càng được ứng dụng rộng rãi trong các ngành công nghiệp thuỷ tinh, gốm sứ, điện tử, vật
liệu quang học, vật liệu từ…
Việt Nam, Trung Quốc,
Ấn Độ, Mỹ, Australia… có nhiều nguyên liệu đất hiếm, trong khi đó Anh, Pháp,
Nhật lại chưa tìm thấy.
34. Vì sao than đá chất thành đống lớn có thể tự bốc cháy?
Do than tác dụng với O2 trong không khí tạo ra CO2,
phản ứng toả nhiệt. Nhiệt toả ra được tích góp dần, khi đạt tới nhiệt độ cháy
của than thì than sẽ tự bốc cháy.
35. Vì sao khi đốt, khí CO cháy còn khí CO2 lại không
cháy?
Do trong CO2, nguyên tử C đã có số oxi hoá cao nhất là +4
rồi. Trong CO nguyên tử C mới có số oxi hoá +2, khi tác dụng với O2
nó tăng lên +4.

36. Vì sao không thể dập tắt đám cháy của các kim loại K, Na, Mg,...
bằng khí CO2?
Do các kim loại trên có tính khử mạnh nên vẫn cháy được trong khí
quyển CO2
Thí dụ: 2Mg + CO2 ® 2MgO + C
37. Vì sao không dùng chai thuỷ tinh mà phải dùng chai bằng nhựa
(chất dẻo) để đựng dung dịch axit flohiđric HF?
Do axit HF là axit yếu nhưng có tính chất đặc biệt là ăn mòn thuỷ
tinh vì nó tác dụng được với oxit silic có trong thành phần của thuỷ tinh.
SiO2 + 4HF ® SiF4 + 2H2O
Người ta thường lợi dụng tính chất này để khắc chữ lên thuỷ tinh.
38. Vì sao muối thô dễ bị chảy nước?
Muối ăn có thành phần chính là natri clorua, ngoài ra còn có một ít
các muối khác trong đó có magiê clorua. Magiê clorua rất ưa nước, nó hấp thụ
nước trong không khí và cũng rất dễ tan trong nước.
Magiê clorua có vị đắng. Nước ở một số khe núi có vị đắng là do có
hoà tan magiê clorua. Trong nước biển cũng có không ít magiê clorua. Nước còn
lại sau khi muối kết tinh ở các ruộng muối gọi là nước ót thì có đến hơn một
nửa là magiê clorua. Người ra dùng nước ót để sản xuất xi măng magiê oxit, vậy
liệu chịu lửa và cả kim loại magiê.
39. Vì sao bôi vôi vào chỗ ong, kiến đốt sẽ đỡ đau?
Do trong nọc của ong, kiến, nhện (và một số cây) có axit hữu cơ tên
là axit fomic. Vôi là chất bazơ, nên trung hoà axit làm ta đỡ đau.
2HCOOH + Ca(OH)2 ® (HCOO)2Ca + 2H2
40. Vì sao ban đêm không nên để nhiều cây xanh trong nhà?
Do ban đêm không có ánh sáng cây không quang hợp, chỉ hô hấp nên hấp
thụ khí O2 và thải ra khí CO2 làm trong phòng thiếu O2
và quá nhiều CO2.
|

41. Vì sao ném đất đèn xuống ao làm
cá chết?
Đất đèn có thành phần chính là canxi
cacbua CaC2, khi tác dụng với nước sinh ra khí axetilen và canxi hiđroxit.
CaC2 + 2H2O ® C2H2
+ Ca(OH)2
Axetilen có thể tác dụng với H2O tạo ra anđehit axetic. Các chất này làm tổn thương đến hoạt
động hô hấp của cá vì vậy có thể làm cá chết.
42. Vì sao người ta thường dùng tro
bếp để bón cây?
Trong tro bếp có chứa muối K2CO3
cung cấp nguyên tố kali cho cây.
43. Vì sao muối NaHCO3
được dùng để chế thuốc đau dạ dày?
NaHCO3 dùng để chế thuốc
đau dạ dày (bao tử) vì nó làm giảm lượng axit HCl trong dạ dày nhờ phản ứng:
NaHCO3 + HCl ® NaCl +
CO2 + H2O
44. Vì sao trong công nghiệp thực
phẩm, muối (NH4)2CO3 được dùng làm bột nở?
|

45. Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho vào nồi cơm một mẩu
than củi?
Do than củi xốp có tính hấp
phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm khê.
làm cho cơm đỡ mùi khê.
46. Vì sao nước rau muống đang xanh khi vắt chanh vào thì chuyển
sang màu đỏ?
Có một số hợp chất hoá học gọi là chất chỉ thị màu, chúng làm cho
dung dịch thay đổi màu khi độ axit thay đổi.
Trong rau muống (và vài loại rau khác) có chất chỉ thị màu này.
Trong chanh có chứa 7% axit xitric. Vắt chanh vào nước rau làm thay đổi độ
axit, do đó làm thay đổi màu nước rau. Khi chưa vắt chanh, nước rau muống có
màu xanh lét là chứa chất kiềm canxi.
47. Vì sao không dùng nước chè khi uống tân dược?
Trong lá chè có chứa 20% tanin và 1 ® 1,5% cafein, các chất này có thể liên kết với một số hoạt chất của
tân dược, do đó làm giảm hiệu quả của thuốc.
48. Vì sao vắt chanh vào cốc sữa đặc có đường sẽ thấy có kết tủa?
Trong sữa có thành phần protein gọi là cazein. Khi vắt chanh vào sữa
sẽ làm tăng độ chua tức làm giảm độ PH của dung dịch sữa. Tới PH đúng với điểm
đẳng điện của cazein thì chất này sẽ kết tủa. Khi làm phomat người ta cũng tách
cazein rồi cho lên men tiếp. Việc làm đậu phụ cũng theo nguyên tắc tương tự như
vậy.
49. Vì sao ăn sắn (củ mì) hay măng có khi bị ngộ độc?
Ăn sắn hay măng bị ngộ độc khi chúng chứa nhiều axit xianhiđric
(HCN). Ở dạng tinh khiết axit xianhidric là chất khí mùi hạnh nhân, có vị đắng
và rất độc. Nhiệt độ nóng chảy là - 13,30C, tan trong nước, rượu,
ete và là axit rất yếu. Trong thiên nhiên gặp ở dạng liên kết trong một số thực
vật (hạt mận, đào, củ sắn, măng tươi).
Sắn luộc hay măng luộc hoặc xào nấu có vị đắng là chứa nhiều axit
xianhiđric, có nguy cơ bị ngộ độc. Khi luộc sắn cần mở vung để axit xianhiđric
bay hơi. Sắn đã phơi khô, giã thành bột để làm bánh thì khi ăn không bao giờ bị
ngộ độc vì khi phơi khô axit xianhiđric sẽ bay hơi hết.
Trong công nghịêp axit xianhiđric được điều chế bằng cách oxi hoá
hỗn hợp khí metan (CH4) và amoniac (NH3), có xúc tác
platin. Axit xianhiđric là nguyên liệu điều chế tổng hợp các chất cao phân tử.
Axit xianhiđric ở dạng tự do dùng làm chất xông hơi chống côn trùng gây bệnh.
Muối của axit xianhiđric như kali xianua (KCN) dùng trong tổng hợp
hữu cơ, trong nhiếp ảnh và để tách kim loại vàng, bạc ra khỏi quặng.
50. Vì sao sau khi ăn trái cây không nên đánh răng ngay ?
Các nhà khoa học khuyến cáo: Ai ăn trái cây thì phải một giờ sau mới
được đánh răng. Tại sao vậy ? chất chua (tức axit hữu cơ) trong trái cây sẽ kết
hợp với những thành phần trong thuốc đánh răng theo bàn chảy sẽ tấn công các kẽ
răng và gây tổn thương cho lợi. Bởi vậy người ta phải đợi đến khi nước bọt
trung hoà lượng axit trong trái cây nhất là táo, cam, nho, chanh.
51. Vì sao các đồ vật bằng bạc để
lâu ngày thường bị xám đen ?
Do bạc tác dụng với khí O2
và khí H2S có trong không khí tạo ra bạc sunfua có màu đen.
4Ag + O2+ 2H2S
® 2Ag2S + 2H2O
52. Vì sao dùng đồ dùng bằng bạc
đựng thức ăn, thức ăn lâu bị ôi ?
Khi bạc gặp nước sẽ có một lượng rất
nhỏ đi vào nước thành ion. Ion bạc có tác dụng diệt khuẩn rất mạnh. Chỉ cần
tỉ gam bạc trong 1 lít
nước cũng đủ diệt các vi khuẩn. Không cho vi khuẩn phát
triển nên giữ cho thức ăn không bị ôi thiu.

53. Vì sao dùng dao (bằng thép) cắt lê, táo thì bề mặt chỗ cắt sẽ bị
đen ?
Trong lê, táo và nhiều loại trái cây có chứa tanin. Tanin còn gọi là
axit tanic, nó tác dụng với sắt tạo thành sắt (III) tanat có màu đen. Tanin có
vị chát, quả hồng có vị chát do rất nhiều tanin.
Tanin tinh khiết là chất bột màu vàng, dễ tan trong nước.
Có khi không dùng dao bằng sắt để cắt lê, táo, hồng mà sau một lúc,
chỗ cắt vẫn bị thâm đen đó là do kết quả của nhiều biến đổi hoá học. Trong phân
tử tanin có chứa nhiều gốc phenol, các gốc này rất mẫn cảm với ánh sáng và rất
dễ bị oxi hoá bởi oxi của không khí biến thành các oxit có màu đen. Vì vậy
tanin thường được bảo quản trong các bình thuỷ tinh sẫm màu. Trong công nghiệp
tanin dùng để thuộc da và chế mực màu đen.
54. Vì sao hơ con dao ướt lên ngọn
lửa, con dao sẽ có màu xanh ?
Đó là do ở nhiệt độ cao sắt tác dụng
với nước tạo nên oxit sắt từ Fe3O4 lấp lánh màu lam. Lớp
áo màu lam này là tấm màng bảo vệ sắt, làm cho sắt không bị gỉ và không bị ăn
mòn.
Ở các nhà máy người ta đem các chế phẩm
bằng thép cho vào dung dịch natri nitrat hoặc hỗn hợp natri nitrat và natri
hidroxit ở nhiệt độ từ 140 -> 1500C. Sau một thời gian nhất định
trên bề mặt sẽ sinh ra một lớp mỏng mầu lam, sau đó lấy ra và nhanh chóng cho
vào nước lạnh, rồi lại đem xử lí bằng nước xà phòng, dầu nóng mấy phút. Người
ta gọi biện pháp này là “tôi muối”. Các chế phẩm qua tôi muối sẽ có tuổi thọ
dài hơn.
55. Vì sao thuỷ tinh thường có màu xanh ?
Do có chứa hợp chất của sắt. Nếu chứa hợp chất sắt (II) thì có màu
xanh còn chứa hợp chất sắt (III) thì có màu vàng nâu.
Nói chung thuỷ tinh chứa 1->2% sắt thì sẽ có màu xanh hoặc vàng
nâu.
Thuỷ tinh quang học không màu chỉ chứa không quá 3 phần vạn sắt.
56. Vì sao thuỷ tinh lại có thể tự thay đổi màu ?
Việc chế tạo thuỷ tinh đổi màu cũng tương tự như chế tạo thuỷ tinh
thường, chỉ khác là người ta thêm vào nguyên liệu chế tạo thuỷ tinh một ít chất
cảm quang như bạc clorua hay bạc bromua… và một ít chất tăng độ nhạy như đồng
clorua. Chất nhạy cảm làm cho thuỷ tinh biến đổi nhạy hơn.
Sự đổi màu có thể giải thích như sau: Khi bị chiếu sáng, bạc clorua
tách thành bạc và clo. Bạc sẽ làm cho thuỷ tinh sẫm màu. Khi không chiếu sáng
nữa, bạc và clo lại gặp nhau, tạo thành bạc clorua không màu, làm cho thuỷ tinh
lại trong suốt.
57.Vì sao thêm muối quá sớm thì đậu không nhừ ?
Các bà mẹ thường nhắc nhở: Khi nấu đậu chớ cho muối quá sớm, điều
này có thể giải thích một cách khoa học như sau: Trong đậu nành khô, nước rất
ít. Do đó có thể coi nó như một dung dịch đặc, và lớp vỏ là một màng bán thẫm. Khi nấu, nước bên ngoài sẽ thẩm thấu vào
trong đậu làm đậu nành nở to ra, sau một thời gian các tế bào trong hạt đậu bị
phá vỡ làm cho đậu mềm.
Nếu khi nấu đậu ta cho muối quá sớm thì nước ở bên ngoài có thể
không đi vào trong đậu, thậm chí nước trong đậu sẽ thẩm thấu ra ngoài do nồng
độ muối trong nước muối bên ngoài lớn hơn nhiều so với nồng độ muối trong đậu
nếu cho muối quá nhiều.
Thông thường khi nấu cháo đậu xanh, cháo đậu đỏ không nên thêm đường
quá sớm hoặc nấu thịt bò, thịt lợn không nên cho muối quá sớm vì cũng sẽ khó
nấu nhừ.
58. Vì sao ăn đường glucozơ lại cảm thấy đầu lưỡi mát lạnh ?
Nếu bạn cho một thìa đường glucozơ vào lưỡi trong cảm giác ngọt ngào
cảm nhận được còn có cảm giác mát lạnh. Vì sao vậy ? Glucozơ tạo ra một dung
dịch đường trên lưỡi, sự phân bố các phân tử đường trong quá trình hoà tan là
quá trình thu nhiệt, do đó ta cảm thấy đầu lưỡi mát lạnh.
59. Vì sao thức ăn nấu khê cháy dễ gây ung thư ?
Theo các chuyên gia của tổ chức y tế thế giới, nấu thức ăn quá cháy
dễ gây ung thư. Chất asparagin trong thực phẩm dưới nhiệt độ cao sẽ kết hợp với
đường tự nhiên trong rau quả, hay các thực phẩm giàu chất cacbohiđrat tạo thành
chất acylamid, tác nhân chính gây ra bệnh ung thư.
Ăn nhiều thịt hun khói và các chất bảo quản thực phẩm chứa
nitrosamin có trong rau ngâm, thịt hun khói làm gia tăng ung thư miệng, thực
quản, thanh quản, dạ dày. Ăn nhiều chất béo có liên quan đến ung thư vú, đại
tràng, trực tràng, niêm mạc tử cung.
Thuốc trừ sâu nitrofen là chất gây ung thư và dị tật bào thai. Hoá
chất độc hại ethinnylestradiol và bisphenol A có trong túi nilong và hộp nhựa
tái sinh dùng đựng thức ăn gây hại cho bào thai.
60. Vì sao gạo nếp lại dẻo ?
Tinh bột có 2 loại amilozơ và amilopectin nhưng không tách rời nhau,
trong mỗi hạt tinh bột, amilopectin là vỏ bao bọc nhân amilozơ. Amilozơ tan
được trong nước, amilopectin hầu như không tan, trong nước nóng amilopectin
trương lên tạo thành hồ. Tính chất này quyết định đến tính dẻo của hạt có tinh
bột. Trong mỗi hạt tinh bột, lượng amilopectin chiếm 80%, amilozơ chiếm khoảng
20%, nên cơm gạo tẻ, ngô tẻ, bánh mì, thường có độ dẻo bình thường. Tinh bột
trong gạo nếp, ngô nếp chứa lượng amilopectin rất cao, khoảng 98% làm cho cơm
nếp, xôi nếp, ngô nếp luộc…rất dẻo, dẻo tới mức dính.
61. Vì sao nước mắt lại mặn ?
Nước mắt mặn là vì trong một lít nước mắt có tới 6g muối. Nước mắt
sinh ra từ tuyến lệ nằm ở phía trên mi ngoài của nhãn cầu. Nước mắt thu nhận
được muối từ máu (trong một lít máu có 9 g muối). Nước mắt có tác dụng bôi trơn
nhãn cầu, làm cho nhãn cầu không bị khô, bị xước và vì có muối nên còn có tác
dụng hạn chế bớt sự phát triển của vi khuẩn trong mắt.
62. Vì sao phía trên cùng của ngọn lửa lại có màu xanh ?
Vì ở chỗ đó nhiệt độ của ngọn lửa cao nhất. Bình thường khi nhiệt độ
vượt quá 10000C thì ngọn lửa sẽ có màu xanh hoặc màu trắng, dưới
10000 C có màu đỏ.
63. Vì sao axit nitric đặc lại làm thủng quần áo ?
Axit nitric đặc là một dung môi của xenlulozơ. Nếu bỏ một nhúm bông
vào axit nitric đặc lắc nhẹ một lúc, nhúm bông sẽ tan hết.
Khi axit nitric đặc dính vào quần áo nó sẽ hòa tan xenlulozơ ngay
nên sẽ xuất hiện lỗ chỗ các lỗ thủng.
Khi bị axit nitric loãng dây vào quần áo, tuy quần áo không bị thủng
ngay, nhưng khi quần áo khô, nồng độ axit tăng và trở thành đặc sẽ làm thủng
quần áo.
Nếu quần áo bị dây axit nitric cần giặt ngay bằng một lượng lớn
nước.
64. Vì sao vữa trát tường phải sau mấy ngày mới cứng lại được ?
Khi bạn đến một công trường xây dựng
bạn sẽ thấy những người thợ xây dùng cát vàng để trộn vữa xây. Loại vữa vôi
nhão dẻo này chỉ sau mấy ngày là trở nên hết sức rắn, nhờ đó các viên gạch có
thể gắn chặt với nhau bền vững. Điều này được giải thích như sau: Vữa vôi trát
tường có chứa vôi tôi [là Ca(OH)2] để trong
không khí sau vài ngày do hai biến đổi:
-Vữa vôi là một chất keo, do đó khi nước trong vữa vôi bay hơi một
phần Ca(OH)2 sẽ kết tinh trong dung dịch quá bão hoà. Các tinh thể
của vôi kết tinh trong chất keo sẽ biến thành một tinh thể rắn chắc.
- Do tác dụng cacbonat hoá, Ca(OH)2 tác dụng với CO2
trong không khí với sự có mặt của nước tạo thành CaCO3 tinh thể.
Hai biến đổi trên đồng thời xảy ra khi vữa vôi tiếp xúc với không
khí làm cho vữa trát tường cứng lại.
65. Vì sao hàng ngàn loài hoa có hàng
trăm màu sắc khác nhau ? Có phải hàng trăm màu sắc khác
nhau ứng với hàng trăm chất khác nhau không ?
Người ta đã phân tích màu sắc của trên 4000 loài hoa và thấy rằng
hàng trăm màu sắc khác nhau kia chỉ là sự biến đổi biến đổi của 7 màu cơ bản là
đỏ, nâu, vàng, lục, lam, tím và trắng. Trong đó phần lớn sắc màu của hoa là sự biến
hoá giữa các màu đỏ, tím và lam. Phần nhỏ hơn là sự biến đổi giữa các màu vàng,
nâu và đỏ.
Nghiên cứu kĩ hơn, người ta còn biết
rằng trong hoa có chứa một loại chất gọi là “hoa thanh tố”, một hợp chất hữu cơ
phức tạp tạo thành bởi benzen và benzopyran màu sắc của nó có thể thay đổi thùy
theo sự thay đổi độ PH của dịch tế bào của hoa. Dịch tế bào có tính kiềm hoa có
màu lam, có tính axit hoa có màu đỏ còn khi trung tính có màu tím.
66. Vì sao trong một ngày hoa phù
dung có thể đổi màu tới 3 lần ?
Hoa phù dung đổi màu 3 lần trong
ngày. Buổi sáng màu trắng, buổi trưa màu phớt hồng, buổi chiều màu hồng đậm
hơn.
Loài hoa, trước sau chỉ biến đổi
thay nhau giữa các màu trắng, hồng, vàng, da cam, đỏ. Đó là do tác động của
chất caroten thay đổi trong thực vật. Sở dĩ có tên như vậy vì lần đầu tiên nó
được chiết suất từ củ carot. Ở dạng tinh
khiết nó là những tinh thể màu đỏ rất đẹp.
Caroten là một loại sắc tố thường thấy trong mọi đoá hoa. Trong sữa
động vật, trong chất béo cũng có sắc tố này nhưng nhiều hơn cả là trong củ
carot (chất màu vàng da cam) Caroten là một hiđrocacbon no và có công thức
là C40H56, trong
phân tử có 11 liên kết đôi và 2 vòng no.
67. Vì sao khi tên lửa bắn trúng máy bay ta thấy xuất hiện khói màu
nâu ?
Nitơ (IV) oxit NO2được dùng làm chất oxit hoá trong nhiên
liệu phóng tên lửa.
Khi tên lửa bắn trúng máy bay thì ở vị trí tên lửa trúng đích xuất
hiện đám khói màu nâu. Đó là do trong tên lửa còn dư nhiên liệu là NO2.
Khi đầu đạn chạm nổ, đồng thời nhiên liệu dư cũng bốc hơi. Nếu tên lửa không
bắn trúng mục tiêu sẽ bay hết đà và tự huỷ, khi đó nghe tiếng nổ và quan sát ta
chỉ thấy khối trắng vì lúc này trong tên lửa đã hết nhiên liệu.
68. Vì sao có khí metan thoát ra từ ruộng lúa ?
Đánh giá lượng khí metan hàng năm thoát ra và đi vào khí quyển đang
là một thách thức với các nhà khoa học. Những đánh giá này đòi hỏi việc phân
tích một lượng khổng lồ các số liệu.
Những nghiên cứu ở Trung Quốc cho thấy có một lượng lớn khi metan
sinh ra từ sự thối rữa các vật thể hữu cơ từ ruộng lúa. Người ta ước chứng
khoảng 1/7 lượng khí metan thoát vào khí quyển hàng năm là từ hoạt động cày cấy
!
Người ta đã tiến hành 1300 thí nghiệm trong mùa gieo trồng trong năm
1988 và 1989 ở Giang Châu (Trung Quốc) cho thấy lượng khí metan thoát ra trung
bình là 58mg/(m2.h). Con số này ở Châu Âu và Bắc Mĩ là 4 - 6mg/(m2.h)
69. Vì sao có thể biến tro xương thành đá quý ?
Công ty TifGem tại Chicago (Mỹ) có sáng kiến biến tro xương của
người quá cố thành những viên ngọc vì trong tro xương có chứa cacbon. Người ta
dùng lò sấy siêu nóng để biến tro xương thành than chì, sau đó nén chúng lại để
tạo ra những viên kim cương xanh và vàng có giá từ 2700 đô la tới 20.000 đô la.
Thành công của công ty LifeGem sẽ tạo sự thay đổi trong vấn đề tìm
nơi an nghỉ cho người quá cố.
70. Vì sao gọi đơteri là nguyên liệu của tương lại ?
Đơteri là một đồng vị của hidrô (
). Các
hạt nhân của đơteri khi kết hợp với nhau sẽ toả ra một năng lượng rất lớn. Một
kilogam đơteri khi kết hợp thành nguyên tử Heli sẽ cho năng lượng tương đương
khi đốt 40.000 tấn than.

Phân tử nước nặng do 2 nguyên tử
đơteri hoá hợp với một nguyên tử oxi mà
thành.
Trong nước
biển, trung bình cứ 6000 phân nước thì có một phân tử nước nặng. Trong một lít nước biển có gần 0,02 gam
đơteri. Tổng trữ lượng của đơteri trong nước biển có đến 25.000 tỉ tấn, tương
đương với 5000 tỉ tỉ tấn dầu mỏ.
Tại sao nói đơteri là nguyên liệu của tương lai còn hiện tại lại
chưa sử dụng được ? Vấn đề ở chỗ là hiện nay chưa nắm được kĩ thuật khống chế
phản ứng nhiệt hạch tổng hợp hạt nhân này.
71. Axit clohiđric có vai trò như thế nào đối với cơ thể ?
Axit clohiđric có vai trò rất quan trọng đối với quá trình trao đổi
chất của cơ thể. Trong dịch vị dạ dày của người có axit clohiđric với nồng đọ
khoảng từ 0,0001 đến 0,001 mol/l (có độ pH tương ứng là 4 và 3) . Ngoài việc
hoà tan các muối khó tan, axit clohiđric còn là chất xúc tác cho các phản ứng
thuỷ phân các chất gluxit (chất đường, bột) và chất protein (chất đạm) thành các chất đơn
giản hơn để cơ thể có thể hấp thụ được.
Lượng axit clohiđric trong dịch vị dạ dày nhỏ hơn hoặc lớn hơn mức
bình thường đều mắc bệnh. Khi trong dịch vị dạ dày, axit clohiđric có nồng độ
nhỏ hơn 0,0001 mol/l (pH > 4,5) ta mắc bệnh khó tiêu, ngược lại, nồng độ lớn
hơn 0,001 mol/l (pH < 3,5) ta mắc bệnh ợ chua. Một số thuốc chữa đau dạ dày
có chứa muối natri hiđrocacbonat NaHCO3(còn gọi là thuốc muối) có
tác dụng trung hoà bớt axit trong dạ dày.
NaHCO3 +
HCl ® NaCl + CO2 + H2O
Trong công nghiệp, một lượng lớn axit clohiđric dùng để sản xuất các
muối clorua và tổng hợp các chất hữu cơ.
Hàng năm trên toàn thế giới sản xuất hàng triệu tấn axit clohiđric
72. Một số dịch lỏng thông thường có độ
pH như thế nào ?
Mẫu
|
pH
|
Dịch dạ dày
|
1-2
|
Nước chanh
|
2,4
|
Giấm
|
3,0
|
Nước nho
|
3,2
|
Nước cam
|
3,5
|
Nước tiểu
|
4,8-7,5
|
Nước để ngoài không khí
|
5,5
|
Nước bọt
|
6,4 - 6,9
|
Sữa
|
6,5
|
Máu
|
7,3-7,45
|
Nước mắt
|
7,4
|
73. pH và sự sâu răng liên quan với nhau như thế nào ?
Răng được bảo vệ bởi lớp men cứng, dày khoảng 2mm. Lớp men này là
hợp chất Ca5(PO4)3OH và được tạo thành bằng
phản ứng : 
(1)


Quá trình tạo lớp men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống
lại bệnh sâu răng.
Sau bữa ăn, vi khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại
trên răng tạo thành các axit hữu cơ như
axit axetic, axit lactic. Thức ăn với hàm lượng đường cao tạo điều kiện tốt
nhất cho việc sản sinh ra các axit đó.
Lượng axit trong miệng tăng, pH giảm, làm cho phản ứng sau xảy ra:
.

Khi nồng độ OH- giảm, theo nguyên lí Lơ Sa-tơ-li-ê, cân
bằng (1) chuyển dịch theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo điều kiện cho
sâu răng phát triển.
Biện pháp tốt nhất phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường,
đánh răng sau khi ăn. Người ta thường trộn vào thuốc đánh răng NaF hay SnF2,
vì ion F- tạo điều kiện cho phản ứng sau xảy ra.

Hợp
chất Ca5(PO4)3 F là men răng thay thế một phần
Ca5(PO4)3OH.
Trước đây, ở nước ta một số người có thói quen ăn trầu là tốt cho
việc tạo men răng theo phản ứng (1), vì trong miếng trầu có vôi tôi Ca(OH)2,
chứa Ca2+ và OH-
làm cho cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều thuận.
74. Cuộc sống ở độ cao và quá trình sản sinh hemoglobin liên quan
với nhau như thế nào ?
Quá trình sinh lí bị ảnh hưởng bởi điều kiện môi trường. Sự thay đổi
đột ngột về độ cao có thể gây ra đau đầu, buồn nôn, mệt mỏi và khó chịu. Đây là
triệu chứng của sự thiếu oxi trong các mô.
Sống ở độ cao vài tuần hoặc vài tháng sẽ dần dần vượt qua được chứng
say độ cao và thích nghi dần với nồng độ oxi thấp trong không khí.
Sự kết hợp oxi với hemoglobin (Hb) trong máu được biểu diễn một cách
đơn giản như sau:

(Hemoglobin) (Oxi hemoglobin)
HbO2 đưa oxi đến các mô.
Biểu thức của hằng số cân bằng là :

Ở độ cao 3 km, áp suất riêng phần
của oxi vào khoảng 0,14 atm so với 0,3 atm ở ngang mực nước biển. Theo nguyên
lí Lơ Sa-tơ-li-ê, nồng độ oxi giảm sẽ làm cho cần bằng trên chuyển dịch sang
trái gây ra bệnh thiếu oxi trong các mô. Hiện tượng này buộc cơ thể người phải
sản sinh ra nhiều phân tử hemoglobin hơn
và cân bằng sẽ chuyển dịch từ trái qua phải, tạo điều kiện cho việc hình thành
oxihemoglobin. Việc sản sinh thêm hemoglobin xảy ra từ
từ. Để đạt được công suất ban đầu phải cần tới vài năm. Các nghiên cứu chỉ
rằng, các cư dân sống lâu ở vùng cao có mức hemoglobin trong máu cao, đôi khi
cao hơn 50% so với những người sống ngang mực nước biển.
75. Thực phẩm được chia thành những nhóm nào ?
Con người muốn tồn tại và phát triển cần phải ăn. Thực phẩm là những
chất mang lại cho cơ thể “nguyên liệu” để sản sinh năng lượng; tạo ra tổ chức
tế bào; sinh sản ra các tế bào; hay các chất mới để thay thế và dự trữ khi cơ
thể cần.
Vì chất dinh dưỡng không có đồng đều trong thực phẩm nên người ta
chia thực phẩm ra làm nhiều nhóm để đảm bảo sự cân đối. Mỹ chia thực phẩm thành
4 nhóm là: bơ - sữa, thị - rau, rau - quả và bánh mì - ngũ cốc. Việt Nam chia 5
nhóm là: gluxit, lipit, protein chất khoáng và vitamin.
76. Cơ thể chúng ta cần những hợp chất hữu cơ thiết yếu nào ?
Cơ thể chúng ta cũng chứa hàng nghìn loại các phân tử hữu cơ và vô
cơ nên cũng được sắp xếp thành loại thiết yếu và không thiết yếu để chú ý khi
nuôi dưỡng.
Có 24 hợp chất hữu cơ thiết yếu là: 9
amino axit, 2 axit béo và 13 vitamin. Có 15 thành phần
thiết yếu vô cơ là: canxi, photpho, iôt, magie, kẽm, đồng, kali, natri, clo,
coban, crom, mangan, molipđen và selen (có thể kể cả asen, vanađi và thiếc).
Các chất trên cơ thể lấy từ thực phẩm như amino axit lấy từ thịt,
trứng, sữa… axit béo không no lấy từ đậu nành… vitamin lấy từ rau quả như
vitamin A trong quả gấc, vitamin C trong quả chanh, cam, bưởi…
77. Cá nóc, gan cóc, mật cá trắm có chứa độc tố gì ?
Cá nóc rất độc vì có chứa độc tố tetraodontoxin, gan cóc và trứng
cóc độc vì chứa bufotoxin, mật cá trắm độc vì có một ancol steroit gây độc là 5
a cyprinol…
78. Nên ăn như thế nào ?
Để cung cấp đầy đủ các chất thiết
yếu cho cơ thể cần phải biết cách ăn như thay đổi thực phẩm (thường gọi là ăn
đổi bữa) và ăn vừa đủ không quá thiếu hoặc quá thừa dinh dưỡng.
79. Thực phẩm ảnh hưởng tới tâm
trạng con người như thế nào ?
Ngày nay người ta khẳng định thực
phẩm không chỉ có ảnh hưởng đến sức khoẻ mà còn ảnh hưởng tới tâm trạng con
người.
· Thức ăn giàu protein (chất đạm) làm cho bạn
vui tươi hẳn lên. Chúng giúp cơ thể sản sinh ra dopamin và norpinephrin làm
tăng nhiệt lượng cơ thể khiến cho bạn được tập trung hơn và còn có tác dụng
giảm được stress. Nếu như trong bữa ăn sáng và trưa bạn dùng một lượng protein
thích hợp sẽ giúp cho bạn tỉnh táo, minh mẫn hơn.
· Thức ăn giàu chất gluxit (chất bột) có tác
dụng làm cho bạn đỡ căng thẳng, ít bị stress và thời gian để cơ thể phục hồi
sau mệt mỏi ngắn hơn. Khi ăn thức ăn có hàm lượng gluxit cao thì đồng thời cũng
tăng lượng amino axit tryptophan đưa đến não, ở đó chúng được biến đổi thành
serotonin có tác dụng làm dịu hệ thần kinh.
· Thức ăn ngọt có tác dụng làm dịu cơ thể. Khi
cơ thể tiếp nhận những thức ăn ngọt thì lượng đường trong máu tăng lên, đồng
thời phản ứng hoá học của cơ thể cũng được tăng cường, khiến bạn cảm thấy dễ
chịu hơn. Đặc biệt kẹo sôcôla có chứa chất phenyletylamin và một số chất khác
có tác dụng kích thích hệ thần kinh, gây cảm giác khoan khoái.
· Trái cây như chuối có chứa nhiều chất dopamin
và norpinephrin là những sản phẩm của não có tác động mạnh đến cảm giác. Trái
táo cung cấp cho cơ thể chất xơ, pectin, nguyên tố bo giúp duy trì độ bền của
xương, giữ được phong độ tỉnh táo, linh hoạt.
· Nước khoáng có ảnh hưởng rất nhiều đến tâm
trọng con người. Cơ thể chúng ta rất cần nhiều nguyên tố vi lượng. Chẳng hạn,
thiếu magie cơ thể dễ bị lâm vào tình trạng trầm uất, bơ phờ, thậm chí còn có
thể dẫn đến hôn mê. Ngoài nước khoáng, thức ăn giàu nguyên tố magie là cám, gạo
tấm, ngũ cốc.
· Đồ uống có chứa chất cafein có tác dụng làm
cho cơ thể hoạt bát, nhanh nhẹn hơn. Song không nên dùng lượng cao vì có thể
gây nôn nao, cáu kỉnh và đau đầu. Uống sữa giúp bạn ngủ ngon và tỉnh táo hơn
khi thức dậy.
80. Vitamin là bạn hay là thù ?
Năm 1970, nhà hoá học hai lần được
giải Nobel là Lainux Pauling (lần thứ nhất vào năm 1901) đã giải thích vitamin
C là một chế phẩm vô hại, tốt nhất, có tác dụng thần kỳ, có khả năng chữa khỏi
bệnh cảm lạnh. Hàng ngày chỉ cần uống liều từ 1 đến 4 gam vitamin C, nếu cảm
nặng hơn thì uống liều cao hơn. Vitamin C chứa axit ascocbic. Axit này tạo
thành các tinh thể không màu, dễ hoà tan trong nước, được tổng hợp trong các
dạng cây xanh có diệp lục sống trên cạn hay dưới nước. Con người đã mất khả
năng tổng hợp axit này từ đường do mất khả năng chế tạo một loại men trong quá
trình tiêu hoá.
Gần đây các nhà nghiên cứu đã chứng
minh là dùng vitamin C liều cao có khả năng giảm mạnh sức đề kháng của cơ thể
chống bệnh cảm lạnh. Họ đã xác định là cơ thể có thể chống lại tình trạng thừa
vitamin C, tuy nhiên quá trình thải loại vitamin C vẫn tiếp tục cho đến khi
trong cơ thể bắt đầu thiếu hụt trầm trọng vitamin C. Cơ thể càng nhận được
vitamin C, thì vitamin C lại càng bị thải loại nhiều. Ở Canada, năm 1965 đã ghi nhận trường hợp các
trẻ sơ sinh đã mắc bệnh thiếu vitamin C, thường gọi là bệnh Scocbut. Người ta
thấy rằng các bà mẹ chúng đã uống vitamin liều cao vì nghĩ là sẽ bảo vệ được
sức khoẻ thai nhi. Nhu cầu hàng ngày về vitamin C của người khoẻ mạnh dao động
từ 0,05 đến 0,1 gam. Trong trường hợp bị cảm lạnh, có
thể chỉ nên tăng liều đến 1 gam thôi.
81. Ăn thế nào để bảo vệ tim mạch ?
Theo các bác sĩ từ thế kỷ XX trước
đây cho đến thế kỷ XXI này, bệnh tim mạch vẫn là nguyên nhân tử vong số 1 của
loài người. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, cứ 4 giây trên mặt đất lại có một nhồi
máu cơ tim, và cứ 5 giây một tai biến mạch não ! Ở các nước đang phát triển như
Việt Nam, số người chết do bênh tim mạch đang tăng nhanh chóng.
Những bệnh chết người này, dù là
bệnh tim như nhồi máu cơ tim hay bệnh mạch như tai biến mạch não, đều có chung
một nguyên nhân là vữa xơ động mạch. Phải ngăn chặn được vữa xơ động mạch, mới
có thể giảm bớt được tử vong về bệnh tật !
Ăn uống hợp lý chính là một biện pháp quan trọng để ngăn chặn vữa xơ
động mạch, tức là đề phòng nhồi máu cơ tim và tai biến mạch não. Cho nên không
riêng gì những bệnh nhân tim mạch nên theo, mà cả những người khoẻ mạnh bình
thường cũng cần chú ý.
Các nghiên cứu gần đây năm 2000 đưa
ra nhiều lời khuyên về ăn uống như sau:
1.Hạn chế các thức ăn có nhiều acid
béo bão hoà, vì chúng là các nguyên liệu để cơ thể tổng hợp ra cholesterol
xấu(LDL-C). Cụ thể là nên bớt ăn các mỡ động vật, đặc biệt là mỡ bò, mỡ cừu
(90% chất béo là acid béo bão hoà); rồi đến bơ sữa. Mỡ lợn, mỡ gà, mỡ chim ít
acid béo bão hoà hơn nên cũng không cần kiêng kỹ lắm. Đặc biệt mỡ cá tuy là mỡ
động vật, nhưng lại có ít acid béo bão hoà, và nhiều acid béo không bão hoà,
nên ăn nhiều để bảo vệ tim mạch. Nên chú ý rằng các dầu thực vật nói chung chứa
ít acid béo bão hoà, nhưng có 2 ngoại lệ: dầu dừa và dầu cọ (palm oil) chứa
acid béo bão hoà nhiều không kém các mỡ động vật 45%! Các nhà chuyên khoa tim
mạch khuyến cáo rằng tỷ lệ acid béo bão hoà không nên quá 10% tổng số calo; ở
người tăng cholesterol thì không nên quá 7%.
2. Hạn chế những thức ăn có nhiều
cholesterol như bơ (có nhiều trong sữa), trứng, óc, bầu dục, tim, gan, tôm,
cua… Không nên ăn quá 300 mg cholesterol mỗi ngày,
người đã tăng cholesterol thì không nên quá 200mg.
Trước đây, ăn ít cholesterol là lời khuyên số 1 để giảm bệnh tim
mạch. Tuy nhiên các tác giả gần đây không bắt kiêng cholesterol nghiêm ngặt như ngày xưa và cho rằng một chế
độ ăn hạ cholesterol không nhất thiết là một chế độ ít cholesterol. Họ thấy
rằng ăn cholesterol không hại bằng ăn các acid béo bão hoà. Thí dụ một lòng đỏ
trứng 17 gam chứa 220mg cholesterol, trước kia người ta chỉ cho ăn mỗi tuần
không đến 2 quả, thì nay các nhà tim mạch học cho phép ăn mỗi tuần 6 quả;
82. Đối với cơ thể muối iot có vai trò như thế nào ?
Để cơ thể khoẻ mạnh, con người cần được cung cấp đầy đủ các nguyên
tố hoá học cần thiết. Có những nguyên tố cần được cung cấp với khối lượng lớn
và có những nguyên tố cần được cung cấp với khối lượng nhỏ (vi lượng). Iot là
một nguyên tố vi lượng hết sức cần thiết đối với con người. Theo các nhà khoa
học, mỗi ngày cơ thể con người cần được cung cấp từ 1.10-4 đến 2.10-4
gam nguyên tố iot.
Cơ thể tiếp nhận được phần iot cần thiết dưới dạng hợp chất của iot
có sẵn trong muối ăn và một số loại thực
phẩm. Nhưng việc thiếu hụt iot vẫn thường xảy ra. Hiện nay, tính trên toàn Thế
Giới một phần ba số dân bị thiếu iot trong cơ thể. Ở Việt Nam , theo điều tra
mới nhất, 94% số dân thiếu hụt iot ở những mức độ khác nhau.
Thiếu hụt iot trong cơ thể dẫn đến hậu quả rất tai hại. Thiếu iot
làm não bị hư hại nên người ta trở nên đần độn, chậm chạp, có thể điếc, câm,
liệt chi, lùn. Thiếu iot còn gây ra bệnh bướu cổ và hàng loạt rối loạn khác,
đặc biệt nguy hiểm đối với bà mẹ và trẻ em.
Để khắc phục sự thiếu iot, người ta phải cho thêm hợp chất của iot
vào thực phẩm như : muối ăn, sữa, kẹo…
Việc dùng muối ăn làm phương tiện chuyển tải iot vào cơ thể người
được nhiều nước áp dụng.
Muối iot là muối ăn có trộn thêm một lượng nhỏ hợp chất của iot
(thường là KI hoặc KIO3 ). Thí dụ: Trộn 25 kg KI vào một tấn muối
ăn.
Người ta cũng cho thêm hợp chất iot vào bột canh, nước mắm…
Việc dùng muối iot thật dễ dàng và đơn giản. Về mùi vị, màu sắc,
muối iot không khác gì muối ăn thường. Tuy nhiên hợp chất iot có thể bị phân
huỷ ở nhiệt độ cao. Vì vậy phải thêm muối iot sau khi thực phẩm đã được nấu
chín.
83. Các hợp chất vô cơ chứa kim loại có tác dụng chữa bệnh như thế
nào ?
Các loại dược phẩm tuy hầu hết là các hợp chất hữu cơ nhưng người ta
cũng nghiên cứu nhiều hợp chất vô cơ để dùng vào việc chữa bệnh.
Bằng các phương pháp nghiên cứu đặc trưng vật lý của các nguyên tử
kim loại như tính phóng xạ, tính thuận từ…người ta có thể phân tích cơ chế tác
dụng của các loại thuốc, đặc biệt là vai trò của các nguyên tử kim loại. Điều
này không những cho phép hiểu được tính năng, tác dụng của chúng mà còn cho
phép tìm tòi có định hướng các loại thuốc mới.
84. Có phải hợp chất chứa platin chữa ung thư ?
Từ những năm 1965 người ta đã nhận thấy hoạt tính ức chế sự phát
triển của các vi khuẩn của chất cisplatin và đã thử dùng chất này để chữa bệnh
ung thư ở người.
Ngày nay các chế phẩm chứa platin thuộc những thuốc hiệu quả nhất và
được sử dụng để chữa ung thư cấp. Cách thuốc chứa platin được dùng để chữa ung
thư như: ung thư buồng trứng, ung thư ruột, ung thư phổi…
Tuy cisplatin là một tác nhân chống ung thư tốt nhưng quá độc. Vì
vậy người ta tìm cách bào chế ra những thuốc mới vẫn giữ được hoạt tính đó
nhưng ít độc hơn.
Việc thử hoạt tính chống ung thư của hàng loạt chất khác nhau và
những nghiên cứu động học về sự thế phối tử cho thấy rằng khi thay đổi phối tử
hoạt tính chống ung thư vẫn được duy trì, còn độc tính thì liên quan trực tiếp
tới độ linh động của phối tử bị thế. Phát hiện này đưa đến việc điều chế hàng
loạt dẫn xuất malonat với độ linh động thấp hơn so với cisplatin, trong đó
cacboplatin đã được chọn để đánh giá lâm sàng. Kết quả thử nghiệm hoàn toàn xác
nhận các dự đoán. Từ 1984 cacboplatin đã được phép sử dụng ở Anh và nhiều nước
khác.
Khoảng 10 chế phẩm platin khác đã được thử nghiệm lâm sàng ở các
nước khác nhau. Trừ tetraplatin các chất còn lại đều là phức chất của Pt (II)
với các nhóm bị thế có độ linh động thấp hơn ở cisplatin.
85. Có phải hợp chất chứa vàng chữa viêm khớp ?
Các hợp chất của vàng đã được dùng để chữa bệnh từ những năm 1920
nhưng người ta vẫn chưa rõ cơ chế tác dụng của chúng.
Có nhiều bằng chứng về hiệu quả chữa bệnh của các hợp chất chứa vàng
nhưng người ta vẫn lo ngại về độc tính của chúng. Có người còn đề nghị chấm dứt
việc sử dụng các hợp chất của vàng để chữa bệnh viêm khớp.
Giải thích cơ chế tác dụng của vàng, một số tác giả cho rằng vàng
bao vây các nhóm thiol hoạt động. Một số khác chỉ ra rằng vàng ức chế việc sinh
sản các dạng oxi hoạt động như ion peroxit các gốc hyđroxyl và peroxyl ở màng
và dịch tế bào.
Gần đây các nhà hoá học vô cơ đã điều chế được hợp chất Auranofin
chứa các phối tử tạo phức bền và có tính ái mỡ, có thể dùng làm thuốc uống, có
tác dụng tương tự như các thuốc tiêm.
86. Có phải hợp chất chứa gali chữa máu tăng canxi ?
Ở Mỹ người ta đã cho phép dùng galinitrat Ga (NO3)3 để chữa bệnh
máu tăng canxi ác tính. Việc này xuất phát từ kinh nghiệm thu được khi dùng một
đồng vị của gali trong chuẩn đoán bệnh xương. Người ta nhận thấy rằng ngoài các
u xương, gali cũng tập trung cả ở một số u khác, nhất là trong bạch huyết.
Những nghiên cứu nhằm xác định sớm các khối u cùng với việc quan tâm
dùng các hợp chất của kim loại làm tác nhân chống ung thư đã thúc đẩy ý định
thử hoạt tính chống ung thư của Ga(OH)3 không phóng xạ trên chuột.
Từ kết quả nghiên cứu trên chuột, người ta bắt đầu nghiên cứu trên người. Kết
quả thử nghiệm trên bệnh nhân bị bệnh máu tăng canxi cho thấy thuốc có hiệu quả
trong việc đưa mức canxi trong máu trở lại bình thường và không có phản ứng
phụ. Sự rút canxi từ xương được ức chế trực tiếp.
87. Có phải hợp chất chứa bitmut chữa viêm loét đường tiêu hoá ?
Các hợp chất của bitmut đã được dùng để chữa các rối loạn ở đường
tiêu hoá (dạ dày, ruột), từ khoảng 2 thế kỷ nay.
Gần đây mối quan tâm lại tăng lên khi vào năm 1982 người ta phát
hiện ra vi khuẩn H.pylori trong màng dạ dày của bệnh nhân viêm dạ dày.
Một loại thuốc dựa trên bitmut là antacid đã tỏ ra có hiệu quả trong
việc chữa loét dạ dày, có lẽ do tác dụng diệt khuẩn chọn lọc của nó. Về mặt hoá
học hiệu quả giữa chống loét có thể là do dung dịch keo của bitmut xitrat bị
kết tủa trong môi trường axit của dạ dày dưới dạng oxiclorua và oxixitrat. Do
sự kết tủa nên lớp màng bảo vệ được hình thành sẽ ngăn cản sự khuyếch tán ngược
lại của ion H+ và do đó kích thích sự tái tạo biểu mô.
Hiện nay thuốc này được sử dụng rất rộng rãi trong chữa bệnh viêm
loét đường tiêu hoá và so với các loại thuốc khác thì bệnh ít bị tái phát hơn.
Đó có thể là do sự triệt tận gốc vi khuẩn H.pylori của thuốc.
88. Có phải hợp chất chứa kim loại dùng chuẩn đoán và chữa bệnh bằng
tia phóng xạ.
Trong y học hạt nhân người ta chuẩn đoán bệnh bằng cách đưa một hạt
nhân bức xạ g vào cơ thể, sau đó dùng một máy dò để
ghi nhận sự phân bố của đồng vị phóng xạ để xác định vị trí mang bệnh và trạng
thái của nó. Hạt nhân phóng xạ hay được sử dụng nhất là tecnixi. Tính ưu việt
của nó là ở chỗ nó phát ra photon g thuần
nhất thuận lợi cho việc ghi nhận mà không bị nhiễu bởi các tia a và b có hại. Chu kỳ bán huỷ của nó là 6 giờ
vừa đủ để ghi nhận mà bệnh nhân không phải chịu bức xạ quá lâu. Mặt khác
tecnexi được sản xuất khá dễ dàng trong các lò phản ứng hạt nhân nên tương đối
rẻ và dễ kiếm. Nhiều chế phẩm y học phóng xạ của tecnexi được điều chế từ sau năm
1980 đã được xác định cấu tạo khá tỉ mỉ và dùng để chuẩn đoán bệnh tim hay xác
định bệnh não v.v.. Một trong những thành công gần đây là điều chế được
progestin chứa tecnexi đánh dấu để chuẩn đoán ung thư vú.
Các ion kim loại có giá trị lớn trong y học nhờ tính thuận từ. Cộng
hưởng thuận từ là phương pháp chuẩn đoán quan trọng dựa trên sự khác nhau về
tốc độ hồi chuyển proton của nước trong các mô khác nhau và chuyển các sự khác
nhau này thành những thông tin cần thiết giúp chuẩn đoán bệnh.
89. Hoá học với bảo quản rau quả như
thế nào ?
Bảo quản rau quả sau khi thu hoạch
là một việc rất quan trọng nhằm chống hư hỏng và giảm sút chất lượng.
- Dùng các hoá chất để chống nảy mầm
và diệt vi sinh vật gây hư hỏng rau quả. Chẳng hạn như để chống nảy mầm cho
khoai tây, hành, cà rốt và một số rau, củ khác, người ta thường dùng chế phẩm
MH- HO (hidrazit của axit malic), phun dung dịch 0,25% lên cây ngoài đồng, 3-4
tuần lễ trước khi thu hoạch. Người ta còn chống nảy mầm khoai tây bằng ancol
nonilic (C9H19OH) ở dạng hơi.
- Để bảo quản bắp cải người ta phun
chất diệt nấm pentaclonitrobenzen lên bắp cải trước khi xếp vào kho.
- Để bảo quản
chuối tươi, cam tươi người ta phun thuốc diệt nấm topsin - M.
Trong những năm gần đây, chất diệt
nấm được dùng nhiều là benlate (C14H18H4O3).
Ở Cộng hoà Liên Bang Đức đã sản xuất chế phẩm bảo quản quả tươi có
tên thương mại là protexan. Protexan là chất lỏng không mùi, không vị và không
độc nên không ảnh hưởng tới sức khoẻ của người tiêu dùng. Người ta nhúng quả
vào dung dịch protexan rồi hong khô, dung dịch bốc hơi và tạo thành màng mỏng
bảo vệ ở ngoài vỏ quả. Màng protexan có tác dụng giảm tổn thất khối lượng quả
trong quá trình bảo quản, giảm cường độ hô hấp, làm chậm quá trình chín nên có
thể bảo quản quả lâu dài hơn, giữ nguyên hương vị tự nhiên và thành phần dinh
dưỡng của quả.
90. Hoá học với chế biến rau quả như thế nào ?
- Các qui trình công nghệ để chế biến rau quả thành các dạng sản
phẩm khác nhau như đồ hộp, sấy khô, rượu vang quả.. đều cần đến một số hoá
chất.
+ Để tăng hiệu quả cho quá trình rửa sạch nguyên liệu và máy móc,
thiết bị của nhà máy hoa quả người ta dùng các hoá chất có tính sát trùng mạnh
hoặc có tác dụng tẩy rửa cao. Rửa nguyên liệu thì dùng các hoá chất có chứa clo
hoạt động như clorua vôi. Để rửa máy móc, thiết bị và làm vệ sinh nhà xưởng
người ta dùng dung dịch xút hoặc natricacbonat.
+ Để bóc vỏ các loại quả khó bóc vỏ như mậm, cà chua, màng múi cam,
quít hoặc một số quả, củ có vỏ mỏng như cà rốt, khoa tây… người ta dùng dung
dịch NaOH. Nhúng các loại quả, củ này vào dung dịch NaOH nồng độ 1-2% ở 70 - 800C
trong thời gian từ 10-300 giây (tuỳ loại quả, củ) thì vỏ sẽ tróc hết. Sau đó
sửa lại bằng nước sạch nhiều lần. Bằng cách này, các múi cam, quít và quả sẽ
sạch hết vỏ mà vẫn giữ nguyên hình trạng ban đầu.
+ Để ngăn ngừa sự biến đổi màu rau, quả khi chế biến như chuối bị
thâm đen, cà chua mất màu đỏ tươi, cùi vải thiều mất màu trắng đẹp… người ta
dùng các chất chống oxi hoá như SO2, axit ascobic (Vi tamin C) axit
xitic.
+ Để tăng hương vị cho nước quả, quả đóng hộp người ta dùng axit
xitric (axit chanh) hoặc axit malic (axit táo). Với rượu quả người ta dùng axit
xitrtic, axit tactric (axit nho).
Với dưa chuột, cà chua, giá đỗ xanh… thì không thể thiếu axit
axetic. Rau dầm giấm (giấm là dung dịch axit axetic 5%, vị chua) cùng với
đường, muối ăn và gia vị tạo cho sản phẩm có hương vị chua - ngọt rất đặc trưng
và hấp dẫn. Axit axetic còn có tác dụng ức chế hoạt động của vi sinh vật, giữ
cho sản phẩm bảo quản được dài ngày.
Trong chế biến rau quả, rất cần chế biến các dạng bán chế phẩm để dự
trữ nguyên liệu khi mùa thu hái rộ.
Để bảo quản bán chế phẩm rau quả người ta dùng các hoá chất có thể
tạo ra SO2 hoặc dùng axit benzoic, axit sobic và muối của chúng.
Khi dùng SO2 để bảo quản bán chế phẩm, người ta nói bán
chế phẩm đã được sunfit hoá. Hàm lượng SO2 có tác dụng bảo quản là
0,1 - 0,2%. Axit benzoic hoặc natri benzoat có
tác dụng diệt vi sinh vật mạnh đối với các loại cà chua. Hàm lượng để có
tác dụng diệt vi sinh vật là 0,05 - 0,1%. Dùng với hàm lượng cao hơn sẽ làm cho
sản phẩm có vị nồng, chát do hoá chất gây ra.
Axit sobic là chất bảo quản các bán chế phẩm rau quả có nhiều ưu
điểm hơn so với SO2 hoặc axit benzoic vì nó không gây độc cho người
sử dụng và không tạo ra hương vị lạ cho sản phẩm. Sản phẩm càng chua (độ PH
càng nhỏ) thì tác dụng diệt vi sinh vật của axit sobic càng mạnh.
91. Thành phần các muối trong nước biển như thế nào?
Thành phần muối
|
Trong 1 kg nước
|
Tỉ lệ %
|
NaCl
|
27,2
|
77,8
|
MgCl2
|
3,8
|
10,9
|
MgSO4
|
1,7
|
47,0
|
CaSO4
|
1,2
|
3,6
|
K2SO4
|
0,9
|
2,5
|
CaCO3
|
0,1
|
» 0,3
|
MgBr2 và các thành phần khác
|
0,1
|
» 0,2
|
Tổng số
|
35,0
|
100
|
Muối trong nước biển:
70% bề mặt trái đất là biển. Tỉ lệ giữa muối và nước trong nước biển
là khoảng 3/100 tức là có 3% muối trong nước biển.
92. Ở đâu có cung điện bằng muối?
Sâu hơn 100 m dưới lòng đất trong núi, mỏ muối ở Ba Lan có một cung
điện làm bằng muối. Công trình này được tạo dựng từ thế kỷ 17. Các chỉnh thể
điêu khắc, giá đèn chùm treo trần và cả đến các gian phòng đều được làm bằng
muối.
93. Làm thế nào để có con bướm bằng muối kết tinh?
Uốn dây thép thành hình con bướm và quấn bông sợi quanh dây thép rồi
đặt vào nước muối đậm đặc. Nước muối từ từ bay hơi và đầu các sợi bông xuất
hiện các tinh thể muối. Đợi cho tinh thể muối xuất hiện ở khắp các sợi bông, ta
lại chuyển sang nước muối đậm đặc khác. Sau khoảng 10 ngày ta có con bướm bằng
muối kết tinh, trông rất đẹp.
94. Dùng muối làm kem que như thế
nào?
Nhiệt độ của nước đá là 00C.
Nếu cho muối ăn vào nhiệt độ sẽ giảm xuống dưới 00C. Lợi dụng tính
chất này để làm kem que như sau: Cắm que tre vào ô đựng nước trái cây rồi đặt
cả vào khay đá có đựng nước đá hoà tan nhiều muối ăn. Tất cả cho vào làm lạnh. Nước trái cây sẽ nhanh chóng đông lại thành kem que.
95. Vì sao nước biển có muối?
Biển cả là "quê hương" của
muối. Muối ăn (NaCl) chiếm 85% các loại muối hoà tan trong nước biển. Giả sử
nếu chúng ta tách được tất cả muối khỏi nước biển rời rải đều trên lục địa thì
lớp muối sẽ cao tới 153 m. Còn làm bay hơi toàn bộ nước biển thì đáy biển sẽ có
lớp muối dày tới 60 m.
Để tìm hiều nguồn gốc của muối trong
nước biển các nhà khoa học đã tốn nhiều công sức từ việc phân tích, so sánh
nước biển và nước sông, cho đến nghiên cứu đất đá sau cơn mưa, thậm chí còn
nghiên cứu hàng loạt núi lửa nữa. Cuối cùng họ đã phát hiện ra bí mật của muối
biển. Hoá ra, đại dương trong quá trình lâu dài hình
thành lúc ban đầu đã hoà tan tất cả các loại muối khoáng. Đồng thời nham thạch
thông qua quá trình phong hoá (nham thạch bị tác động lâu ngày của mưa, nắng,
gió bão và vi sinh vật) đã không ngừng bị phân giải và sản sinh ra các loại
muối, sau đó theo các dòng sông để ra đại dương. Vậy sông ngòi, nham thạch và
các núi lửa dưới đáy biển chính là nguồn gốc cung cấp chủ yếu các loại muối cho
biển cả.
96. Biển Chết nằm ở đâu?
"Biển Chết" nằm ở biên
giới Palestin và Jordan, gọi là "biển" nhưng thực ra "Biển Chết"
chỉ là cái hồ khá lớn.
Mặt bắc của "Biển Chết" có
sông Jordan chảy vào, còn mặt Nam là cửa sông Hasa. Biển chết không hề có đường
nước thông với bất kỳ đại dương nào. Từ bao đời nay nước hồ chưa bao giờ chảy
ngược về hai con sông trên. Nước trong hồ có nồng độ muối ngày càng cao, do nằm
trong khu vực có khí hậu cực nóng, nên
nước hồ bốc hơi rất nhiều mà lượng muối lại không hề giảm đi. Hiện nay hàm
lượng muối của Biển Chết đã đạt đến 23 ® 25%, tức cứ 10 kg nước hồ thì có 2
kg muối. Đây cũng là nước hồ có hàm lượng muối cao nhất thế giới. Do hàm lượng
muối cao nên sức đẩy của nước khá lớn đến mức có thể nằm vừa phơi nắng vừa đọc
báo trên mặt biển. Vì hàm lượng muối quá cao nên trừ vài loài rong tảo ra chẳng
có sinh vật nào có thể tồn tại được. Cây cỏ trên bờ hồ cũng chỉ lơ thơ, thưa
thớt còn quanh hồ hiếm khi chẳng có bóng người. Vì vậy chẳng có cái tên nào
thích hợp hơn cái tên "Biển Chết".
97. Chất lượng nước ở các nguồn khác
nhau như thế nào?
Nước bay hơi tích tụ trong khí quyền là khá sạch. Khi trở về trái
đất dưới dạng mưa hoặc tuyết rồi di chuyển trên mặt đất hoặc ngấm qua đất về
phía biển, nước sẽ có thêm tạp chất mà nồng độ và bản chất khác nhau tuỳ vùng,
và tuỳ giai đoạn của chu trình.
Nước mưa.
Tuy khá tinh khiết nhưng nước mưa vẫn chứa các khí, một số muối tan
và cả những chất rắn không tan có thể có trong khí quyển.
Nước trên mặt đất (sông suối)
Nước mưa chảy trên mặt đất có thể chứa axít vì ngoài việc đã hấp thụ
một số khí có tính axít trong khí quyển (như SO2, CO2) nó
còn hoà tan các axít cacboxylic và cacbon đioxit sinh ra do quá trình phân huỷ
thực vật. Ngoài ra nó còn hoà tan được các muối khoáng gặp trên dòng chảy. Nước
axít này sẽ hoà tan được các muối và khoáng gặp trên dòng chảy. Nước axit này
sẽ hoà tan được một số quặng theo phản ứng sau:
KAlSi3O8(r)
+ 2H+(aq) + 9H2O(1) ® 2K+(aq)
+ 4H4SiO4(aq) + Al2Si2O5(OH)4(r)
(fenspat) (Cao
lanh)
Do vậy nước mất dần tính axit.
Nước trên mặt đất còn có thể bị ô
nhiễm bởi vi sinh vật nữa.
Nước biển:
Nồng độ các ion tan trong nước biển
lớn hơn nhiều so với nước trên mặt đất và nước ngầm:
Các nguyên nhân là:
- Nước biển bay hơi liên tục, trở lại dưới dạng mưa và mang theo
chất tan
- Nước đi càng xa mới đến biển sẽ càng hoà tan nhiều muối.
- Những lượng lớn quặng được đưa từ bề mặt quả đất tới các đại dương
dưới dạng macma.
Mọi nguyên tố hoá học đều có trong các đại dương nên đại dương được
coi như một kho quặng lớn nhất thế giới. Nước đại dương chứa khoảng 40 triệu
tấn chất rắn tan trong mỗi kilômet khối nước.
Nguyên tố
|
Số tấn/km3
|
Nguyên tố
|
Số tấn/km3
|
Nguyên tố
|
Số tấn/km3
|
Clo
|
22.000.000
|
Inđi
|
23
|
Bạc
|
0,2
|
Natri
|
12.000.000
|
Kẽm
|
12
|
Lantan
|
0,2
|
Magie
|
1.600.000
|
Sắt
|
12
|
Kripton
|
0,2
|
Lưu huỳnh
|
1.000.000
|
Nhôm
|
12
|
Neon
|
0,1
|
Canxi
|
450.000
|
Molipđen
|
12
|
Cađimi
|
0,1
|
Kali
|
44.000
|
Selen
|
4
|
Vonfram
|
0,1
|
Brom
|
75.000
|
Thiếc
|
3
|
Xenon
|
0,1
|
Cacbon
|
32.000
|
Đồng
|
3
|
Gemani
|
0,1
|
Stronti
|
9.000
|
Asen
|
3
|
Crom
|
0,05
|
Bo
|
5.600
|
Urani
|
3
|
Thori
|
0,05
|
Silic
|
3.400
|
Niken
|
2
|
Scanđi
|
0,05
|
Flo
|
1.500
|
Vanađi
|
2
|
Chì
|
0,02
|
Agon
|
680
|
Mangan
|
2
|
Thuỷ ngân
|
0,02
|
Nitơ
|
590
|
Titan
|
1
|
Gali
|
0,02
|
Liti
|
200
|
Antimoan
|
0,5
|
Bitmut
|
0,02
|
Rubiđi
|
140
|
Coban
|
0,5
|
Niobi
|
0,01
|
Photpho
|
80
|
Xesi
|
0,5
|
Tali
|
0,01
|
Iot
|
68
|
Xeri
|
0,5
|
Heli
|
0,01
|
Bari
|
35
|
Ytri
|
0,2
|
Vàng
|
0,005
|
98. Làm mưa nhân tạo như thế nào?
Nước tồn tại trong mây dưới dạng hơi, dạng lỏng và dạng tinh thể.
Thông thường ở 00C nước đóng băng, nhưng trong những đám mây, dù ở -200C, các hạt nước nhỏ
li ti vẫn ở thể lỏng. Chỉ khi nhiệt độ hạ xuống - 400C, nước trong
đám mây mới kết tinh hoàn toàn. Số lượng tinh thể nước trong mây phụ thuộc vào
các "hạt nhân kết tinh" là các
hạt băng chứa trong đó, còn gọi là "mầm kết tinh".
Các nhà khoa học từ lâu đã phát hiện tinh thể bạc iotua (AgI) có cấu
tạo rất giống cấu tạo của các hạt băng nên có thể dùng làm "mầm kết
tinh". Chỉ với 1g AgI đã tạo ra được từ 1012 ® 1016 trung tâm kết tinh, làm ngưng tụ một lượng nước lớn
ở dạng khí tạo ra mưa hoặc tuyết.
Bạc Iotua là một hoá chất rất đắt, vì vậy các nhà hoá học đã nghiên
cứu tìm các chất thay thế rẻ tiền hơn đó là chì Iotua (PbI2); 1,5 -
đioxinaftalen; nước đá khô (CO2 rắn) và nhiều chất hữu cơ khác.
Dùng các chất trên làm mưa với điều kiện là trên trời đã có sẵn
những đám mây. Người ta dùng máy bay để rắc các chất trên vào mây.
Nhờ phương pháp này người ta đã cứu một vụ gieo trồng bị hạn khi sắp
thu hoạch, tăng độ ẩm khi mùa màng bị lâm nguy hoặc bắt một cơn mưa sớm để có
bầu trời quang đãng trước ngày hội lớn.
Có những kì olympic mùa đông, người ta đã dùng phương pháp này để
làm tăng lượng tuyết lên từ 10 ® 15%. Nếu tính được hướng gió và xác định đúng địa điểm rắc hoá
chất, có thể làm mưa ở những điểm cháy rừng, khi ngọn lửa mới bùng lên. Bộ lâm
nghiệp nước CHLB Nga đã nhiều lần cứu hàng nghìn hecta rừng Xiberi khỏi thần
lửa.
99. Làm thế nào để ngăn ngừa mưa đá?
Rắc vào đám mây những "hạt nhân
kết tinh" không những "thay trời làm mưa" mà còn ngăn ngừa được
mưa đá, những hạt băng đang lớn dần chuẩn bị cho mưa đá, không lớn lên được nữa
do những "mầm kết tinh" bằng hoá chất tranh cướp độ ẩm. Các hạt băng
nhỏ li ti nhiều hơn, nhưng không đạt đến kích thước của hạt mưa đá. Trên đường
rơi xuống mặt đất chúng bị tan ra và trở thành cơn mưa bình thường.
Hiện nay đã có những ra đa khí tượng
dự báo sự hình thành những đám mây chứa những hạt băng. Các tên lửa và đạn chứa
hoá chất được điểu khiển để bắn trúng đích. Nhờ vậy mà nhiều vùng rộng lớn ở
các nước tiên tiến đã tránh được sự tàn phá của mưa đá đối với mùa màng.
100. Làm thế nào để phá tan sương
mù?
Sương mù, thủ phạm gây ra những vụ
tai nạn đường thuỷ, đường bộ và đường không.
Người ta rắc hoặc bắn vào khói sương
mù các loại hạt nặng có tính hút ẩm như muối ăn (NaCl) trộn với xi măng mịn,
các chất hoạt động bề mặt, các chất tích điện...
Những hạt nước lơ lững, dày đặc
trong sương mù khi gặp "mầm kết tinh" sẽ đông tụ khiến mật độ của
chúng trong không khí giảm dần và cuối cùng rơi xuống dưới dạng những hạt nước.
Bên cạnh phương pháp hoá học, người
ta còn dùng các phương pháp khác. Ở Mỹ, người ta phá sương mù bằng máy bay trực
thăng. Cánh quạt của máy bay hút dòng không khí khô ở các lớp tầng cao xuống
xua tan sương mù. Sân bay Orly của Pháp phá sương mù bằng luồng không khí nóng
do một hệ thông tua bin đẩy ra, hướng vào đường băng.
101. Làm tan giông bão như thế nào?
Để làm tan giông bão người Nga dùng
máy bay rắc vào đám mây những hạt bột nặng (cát, xi măng) khiến đám mây nhanh
chóng bị tan ra. Người Mỹ rắc lên đám mây những sợi chỉ nilon mạ kim loại. Sự
phóng điện kiểu hồ quang trong điện trường gây ion hoá không khí, tăng độ dẫn
điện và làm dịu đi sự phóng điện của các điện tích và nhờ vậy có thể triệt tiêu
sấm chớp.
Các nhà khí tượng học rắc các chất
kiết tinh vào những đám mây giông, phân bố lại năng lượng và làm giảm sức phá
hoại của các trận bão. Chẳng hạn ở Mỹ với trận bão Dally năm 1979, bằng cách
"xử lý" này người ta đã làm tốc độ gió giảm đi 1/3.
Các nhà hoá học cũng dùng những chất
hoạt động bề mặt để can thiệp vào thời tiết do làm thay đổi tính chất của bề
mặt nước và đất. Dùng một lượng nhỏ rượu béo đa chức tạo lớp màng cực mỏng trên
mặt biển làm giảm mạnh lượng nước bay hơi và ngăn chặn được sự hình thành những
đám sương mù nguy hiểm bao phủ cảng, nhất là vào mùa lạnh.
Rắc những hạt mồ hóng trên mặt đất,
điều chỉnh được tỉ lệ hấp thụ tia bức xạ, làm thay đổi chế độ nhiệt tại một
vùng rộng lớn.
Nhìn chung các phương pháp hoá học
tác động vào thời tiết còn rất đắt, không kinh tế vì thế chưa được sử dụng rộng
rãi.
Con đường chế ngự thời tiết còn rộng
mở, đang chờ đợi các nhà hoá học trẻ tìm ra các phương pháp tác động mới, các
hoá chất mới có hiệu quả cao hơn, rẻ hơn và khả thi hơn.
102. Thế nào là mác xi măng?
Xi măng có nhiều mác khác nhau: 200, 250, 300, 400, 500 và 600. Mác
xi măng chỉ tải trọng (tính bằng kg lực/cm2) mà xi măng đã hoá rắn
có thể chịu được không bị biến dạng sau 28 ngày từ khi trộn với nước.
103. Đánh giá chất lượng xăng như thế nào?
Xăng dùng cho các loại động cơ thông dụng như ô tô, xe máy là hỗn
hợp hiđrocacbon no ở thể lỏng (từ C5H12 đến C12H26).
Chất lượng xăng được đánh giá qua chỉ số octan là phần trăm các ankan mạch
nhánh có trong xăng. Chỉ số octan càng cao thì chất lượng xăng càng tốt do khả
năng chịu áp lực nén tốt nên khả năng sinh nhiệt cao. n-Heptan được coi là có
chỉ số octan bằng zero còn 2,2,4-trimetylpentan được quy ước có chỉ số octan
bằng 100. Các hiđrocacbon mạch vòng và mạch nhánh có chỉ số octan cao hơn các
hiđrocacbon mạch không nhánh. Xăng có chỉ số octan thấp như MOGAS 83 thường
phải pha thêm một số phụ gia như tetraetyl chì (C2H5)4
hoặc lưu huỳnh. Các phụ gia này giúp làm tăng khả năng chịu nén của nhiên liệu
nhưng khi thải ra không khí gây ô nhiễm môi trường, rất hại cho sức khoẻ con
người. Hiện nay, ở Việt Nam chủ yếu dùng xăng A90 hoặc A92 là loại xăng có chỉ
số octan cao - những loại xăng này không cần phải thêm các phụ gia nên đỡ độc
hại và ít gây ô nhiễm môi trường.
104. Bình chữa cháy hoạt động như thế nào?
Khí CO2 không cháy và không duy trì sự cháy của nhiều
chất, nên người ta dùng những bình tạo khí CO2 để dập tắt các đám
cháy. Tuy nhiên, một số kim loại có tính khử mạnh, thí dụ Mg, Al,... khi đốt
nóng cháy được trong khí CO2:

105. Đất đèn đã được sử dụng trong
những ngành kinh tế quốc dân nào ?
Đất đèn là một hoá chất có rất nhiều công dụng. Nó được sử dụng
trong nhiều ngành kinh tế quốc dân như giao thông vận tải, công nghiệp, nông
nghiệp, sản suất hàng tiêu dùng và nhất là làm nguyên liệu trong công nghiệp
hoá chất.
106. Đất đèn được sản xuất từ khi
nào?
Cuối thế kỷ 19, đất đèn (có trong thành phần chính là CaC2)
mới chỉ được sản xuất ở 12 nước trên thế giới. Thời gian này, đất đèn chủ yếu
dùng để thắp sáng. Dựa vào các phản ứng sau:


Cho đến năm 1911 vẫn còn tới 965 thành phố sử dụng đất để thắp sáng
đường phố vào ban đêm.
Trong nhiều năm trước đây, ở nước ta, đất đèn được sử dụng để thắp
sáng trong các hầm lò khai thác và vận chuyển than. Ngư dân một số vùng ven
biển dùng đất đèn vào việc thắp sáng để đánh bắt cá, tôm do độ dáng của ngọn
đèn đất tương đương với bóng điện có công suất 60 - 80 W. Ở nông thôn nước ta,
trong nhiều năm trước đây người ta cũng dùng đất đèn để thắp sáng trong những
dịp có đình đám hoặc lễ tết.
107. Đèn xì oxi - axetilen dùng để làm gì?
Khí axetilen sinh ra khi cho đất đèn tác dụng với nước được dùng làm
nhiên liệu trong đèn xì oxi - axetilen để hàn cắt kim loại do nhiệt độ ngọn lửa
có thể lên tới 30000C.
Để sản xuất được một chiếc xe đẹp người ta phải dùng tới 3 kg đất
đèn.
Việc hàn, cắt kim loại bằng đèn xì oxi - axetilen được sử dụng khi
đóng mới hoặc sửa chữa các con tàu sông, biển hay xây dựng, sửa chữa các cây
cầu, các công trình xây dựng.
Khi cần cắt, phá các con tàu đã bị hư hỏng để tận dụng sắt, thép cũ
phục vụ cho ngành luyện cán thép người ta cũng dùng đèn xì oxi - axetilen.
108. Khí axetilen đã được dùng làm nguyên liệu để sản xuất các chất
hữu cơ như thế nào?
Khi công nghiệp chế biến hoá học dầu mỏ chưa phát triển (cho đến
khoảng năm 1950) thì khí axetilen sản xuất từ đất đèn là nguyên liệu chính của
công nghiệp sản xuất các hợp chất hữu cơ.
|


|



Cl Cl n
Polivinyl clorua (PVC) được coi là chất dẻo vạn năng. PVC dùng để
sản xuất ra màng mỏng, bao bì, da giả, thùng đựng hoá chất, sợi chịu hoá chất,
các cấu kiện xây dựng... Để sản xuất 1 tấn PVC phải dùng từ 17 - 2 tấn đất đèn.
+ Cũng trên cơ sở cho khí axetilen tác dụng với khí hiđroclorua
người ta đã có các công nghệ tiếp theo chuyển đổi thành butadien để sản xuất
cao su nhân tạo và hàng loạt monome có giá trị công nghiệp như acrilonitril,
vinylaxetat, este của axit acrylic,...
Trùng hợp vinylaxetat rồi thuỷ phân người ta thu được polivinyacol.
Từ polime này kéo thành sợi bền, đẹp, chịu được hoá chất và thời tiết, có độ
hút ẩm cao được gọi là vinylon. Như vậy axetilen là nguyên liệu quan trọng để
giải quyết tốt vấn đề mặc.
109. Khí axetilen được dùng để sản xuất muội than như thế nào?
Người ta còn dùng khí axetilen từ đất đèn để sản xuất muội than gọi
là muội axetilen.
Sau khi loại bỏ các tạp chất, khí axetilen được chứa vào bồn lớn rồi
dùng nhiệt độ cao để phân huỷ axetilen tạo ra cacbon (C) tinh khiết. Muội
axetilen là nguyên liệu cao cấp dùng cho các ngành điện tử, sơn, mực in, chế
tạo thép cứng, chổi than, chế biến cao su,... Ngành sản xuất pin tiêu thụ rất
nhiều muội than, bình quân để sản xuất 1 triệu chiếc pin R20 phải cần từ 2,7 ® 3 tấn muội than axetilen. Nhà máy đất đèn Tràng Kênh (Hải phòng) là
cơ sở đầu tiên trong nước sản xuất muội than axetilen để cung cấp cho ngành pin
và các ngành kinh tế khác.
110. Trong nông nghiệp đất đèn dùng để làm gì?
· Trong nông nghiệp, từ lâu người ta đã dùng đất đèn để rấm quả xanh,
kích thích quả mau chín và chín đồng loạt ở các kho, thường dùng để rấm dứa,
chuối, cà chua... vào dịp cuối mùa đông, đầu mùa xuân.
Người ta xử lý nõn cây dứa bằng đất đèn, cây dứa sẽ cho quả to đồng
đều, thơm ngon, tỉ lệ đường cao và nhất là làm cho dứa ra hoa kết quả trái vụ.
Đất đèn còn dùng để sản xuất phân đạm canxi xiânmit (CaCN2)
dùng bón cho các loại cây trồng như lúa và nhất là bông. Hàng năm hãng DENKA
của Nhật Bản dùng từ 300.000 đến 500.000 tấn đất đèn để xản xuất phân bón canxi
xianamit.
|

vôi sống than cốc
111. Cấu tạo và nguyên tắc hoạt động của pin mặt trời thế nào?
Người ta dùng chất liệu là những tế bào silic để làm pin mặt trời
(pin quang học). Từ một tinh thể silic, người ta cắt ra thành phiến nhỏ, phiến
này có tính dẫn điện N (âm). Trên bề mặt có dán lớp tạp chất Bo (B) có tính dẫn
điện P (dương). Giữa P - N có lớp phân cách mỏng. Trên bề mặt hai lớp P - N
được gắn điện cực dẫn điện ra ngoài.
Nguyên tắc hoạt động: Lớp P có những lỗ rất nhỏ để ánh sáng chiếu
tới lớp N. Các tia nắng cung cấp năng lượng vào lớp N khiến vô số electron tách
ra khỏi nguyên tử lớp silic khuyếch tán và tích tụ ở điện cực ( - ) hình thành
điện tích âm. Còn lớp P do tác dụng của ánh sáng luôn tạo thêm những điện tích
dương và tích tụ ở bản cực ( + ). Nếu khép 2 mạch điện cực sẽ có dòng điện.
112. Làm nến màu như thế nào?
Ngày tế (tết dương lịch và âm lịch)
nếu chúng ta có hàng nến với ngọn lửa lung linh, đủ màu sắc để đón giao thừa
thì hay biết mấy.
Xin mách bạn cách làm ra những cây
nến màu. Thân nến màu đỏ, ngọn lửa cũng có màu đỏ. Thân nến màu xanh, ngọn lửa
cũng có màu xanh,... và còn toả ra mùi thơm quyến rũ nữa.
Cách làm:
· Thân nến làm bằng parafin, có thể
mua parafin tại các cửa hàng hoá chất hoặc mua loại nến rẻ tiền để lấy parafin.
· Chất tạo màu cho thân cây nến là
những chất màu có thể tan trong parafin nóng chảy như metyl xanh (màu xanh)
auramin (màu vàng), rodamin, eosin (màu đỏ),...
Cũng có thể tạo mầu cho thân cây nến
bằng cách đơn giản hơn là dùng phấn mầu để bôi lên cây nến.
· Bấc nến làm bằng sợi bông, sợi
lanh,... không dùng sợi tổng hợp. Để bấc cháy không có tàn cần tẩm bấc bằng
dung dịch natri borat hoặc natri photphat rồi phơi khô.
· Chất tạo màu cho ngọn lửa là các
muối vô cơ.
Hoà tan riêng từng muối vô cơ vào
nước để được dung dịch bão hoà. Tầm bấc vào dung dịch muối bão hoà rồi phơi
khô.
Khi cháy ngọn lửa sẽ có màu như sau:
· KCl hay KNO3 : Màu
tím (bởi K+)
· NaCl hay NaNO3 : Màu vàng (bởi Na+)
· LiCl hay LiNO3 : Đỏ
thắm (bởi Li+)
· CaCl2 hay Ca(NO3)2 : Đỏ
gạch (bởi Ca2+)
· BaCl2 hay Ba(NO3)2 : Xanh
nõn chuối (bởi Ba2+)
· CuCl2 hay CuSO4 : Xanh da trời
(bởi Cu2+)
113. Làm nến thơm như thế nào?
· Chất thơm: Dùng nước hoa hay tinh dầu có thể hoà tan vào parafin
khi nóng chảy.
Khi đã chuẩn bị xong parafin để làm thân cây nến có màu và có mùi
thơm; bấc nến tẩm dung dịch muối vô cơ tạo màu cho ngọn lửa, ta tiến hành đổ
khuôn để đúc thành cây nến.
Khuôn nến có thể dùng các ống
bằng kim loại hay chất dẻo đã có sẵn hoặc gò bằng sắt tây.
Đặt bấc vào khuôn, sao cho đúng tâm rồi cố định phía dưới và phía
trên. Nấu chảy parafin
rồi đổ vào khuôn. Để nguội và tháo khuôn.
Parafin nóng chảy ở 50 - 550C
nhưng cần đun quá nhiệt độ này. Thường đổ khuôn ở 60 - 650C. Nếu đổ
khuôn ở nhiệt độ thấp hơn, parafin sẽ đông cứng nhanh và bề mặt nến không nhẵn.
Ở nhiệt độ cao hơn, độ nhớt quánh của parafin thấp làm nó dễ chảy quả các khe
hở của khuôn.
Có thể đúc cây nến có nhiều màu, mỗi
khúc một màu hoặc có vân bằng cách đúc từng khúc hay trộn lẫn các màu.
Cũng có thể dùng một chất để vừa tạo
màu cho thân cây vừa tạo màu cho ngọn lửa. Thí dụ như:
+ Nến xanh lá cây: Dùng Crom (III)
oxit. Màu ngọn lửa cũng xanh lá cây do ion Cr3+. Điều chế chất này
bằng cách nhiệt phân muối amoni đicromat hoặc nung nóng natri đicromat với lưu
huỳnh.
+ Nến vàng: Dùng natri cromat làm màu cho thân nến. Ngọn lửa cũng
vàng nhờ ion Na+.
Trong những ngày lễ lớn chúng ta được xem những màn pháo hoa rực rỡ,
muôn màu. Pháo hoa cũng được chế tạo theo nguyên tắc trên.
114. Thế nào là hiệu ứng nhà kính ?
Chúng ta rất hay nghe thấy cụm từ “Hiệu ứng nhà kính”, vậy hiệu ứng
nhà kính là gì ? Đó là hiện tượng làm cho Trái Đất ấm lên bởi khí CO2.
Khí CO2 trong khí quyển chỉ hấp thụ một phần những tia hồng ngoại
(bức xạ nhiệt) của mặt trời và cho các tia có sóng l từ 50.000 đến 100.000 A0 đi qua đến mặt đất. Những bức
xạ nhiệt phát ngược lại từ mặt đất có bước sóng trên 140.000A0 bị
khí cacbonic hấp thụ mạnh và phát trở lại trái đất làm Trái Đất ấm lên. Về mặt
hấp thụ bức xạ, lớp CO2 ở trong khí quyển tương đương với lớp thuỷ
tinh ở các nhà kính dùng để trồng cây, ở xứ lạnh. Do đó hiện tượng làm Trái Đất
ấm lên bởi khí CO2 được gọi là “Hiệu ứng nhà kính”.
Người ta cho rằng nếu trong khí quyển của hành tinh chúng ta không
có lượng khí CO2 thì nhiệt độ ở mặt đất thấp hơn hiện tại là 210C.
Ngược lại nếu CO2 tăng gấp đôi so với hiện tại nên nhiệt độ sẽ tăng
thêm 40C. Ở sao Kim, lượng CO2 gấp 60.000 lần ở Trái Đất
nên nhiệt độ trung bình của sao Kim là 4250C.
Chú ý rằng nhiệt độ ở mặt đất tăng lên 10C đã ảnh hưởng
bất lợi cho sản xuất lương thực của thế giới. Nguyên nhân của sự tăng hàm lượng
CO2 trong khí quyển là việc sử dụng nhiên liệu trong nhà máy nhiệt
điện và các nhà máy khác, là việc phá rừng. Vì vậy vì lợi ích chung hãy bảo vệ
lấy rừng - lá phổi của Trái Đất !!!
115. Tầng ozon đang bị suy giảm như thế nào ?
Trên tầng cao của khí quyển, các mặt đất gần 25 km có một lớp ozon
dầy, gọi là tầng ozon. Nó có tác dụng ngăn không cho tia cực tím chiếu trực
tiếp xuống Trái Đất.
Do phản
ứng:
hÖ
có l : 1600
®2400 A0

Tuy nhiên gần đây các nhà khoa học
phát hiện thấy ở một số khu vực tầng ozon bị bào mòn, thậm chí có chỗ bị thủng
- gọi lỗ thủng tầng ozon.
Tầng ozon bị thủng sẽ không còn tác dụng ngăn
tia cực tím - nghĩa là tia cực tím sẽ chiếu trực tiếp xuống Trái Đất gây ra
nhiều bệnh ngoài da cho con người và động vật (ví dụ như ung thư da,…)
Nguyễn nhân do một số khí như: freon (CFC), các oxit nitơ. Các
freon, là các hợp chất Clorofloro cacbon, ví dụ như CFCl3, CF2Cl2,
được dùng rộng rãi làm chất đẩy trong bình phun, chấy gây lạnh trong tủ lạnh và
máy điều hoà nhiệt độ và chất gây xốp cho chất dẻo. Dưới tác dụng của các bức
xạ mặt trời (l : 1900 ® 2250A0 ) chúng thúc đẩy quá trình biến đổi O3® O2
116. Màn khói giết người đã xảy ra ở
đâu ?
Ngày 5 tháng 12 năm 1952, nước Anh
(nước được mệnh danh là xứ sở của sương mù) tại Luân Đôn đã xẩy ra sự kiện “màn
khói giết người” làm chấn động thế giới. Việc giám sát môi trường cho thấy hàm
lượng khí SO2cao tới 3,8mg/m3, gấp 6 lần và nồng độ bụi
khói lên tới 4,5mg/m3 gấp 10 lần so với ngày thường. Dân trong thành phố thấy tức ngực, khó thở và ho liên tục. Chỉ trong
vòng 4, 5 ngày đã có hơn 4000 người chết trong đó phần lớn là trẻ em và người
già, hai tháng sau lại có trên 8000 người nữa chết.
Nguyên nhân của “màn khói giết người” ở thành phố Luân Đôn là do
khói than của các nhà máy quyện vào với sương mù buổi sớm mùa đông gây ra.
117. Khí clo đã được dùng làm vũ khí ở đâu và khi nào ?
Đó là xế chiều ngày 24 - 4 - 1915 (thế chiến thứ nhất 1914 - 1918)
giữa 2 ngôi làng có tên là Steenstraat và Poel Kappelle (nước Bỉ) xuất hiện một
đám khói màu vàng lục xuất phát từ phòng tuyến của quân Đức bay là là cách mặt
đất 1 mét theo chiều gió tiến dần đến phòng tuyến quân Pháp. Đó là khói của 150
tấn clo chứa trong 5830 thùng điều áp vừa được các binh sĩ của trung đoàn quân
tiên phong 35 và 36 Đức thả vào không khí. Mười lăm phút sau, bộ binh Đức được
trang bị đặc biệt bám theo đám khói clo đó tấn công thẳng vào cứ điểm Pháp. Sự
tác động của khí độc thật vô cùng ghê gớm. Hàng trăm binh sĩ Pháp hỗn loạn chạy
ngược về phía sau tìm không khí để thở. Khi quân Đức tới nới họ trông thấy
nhiều xác chết với gương mặt xanh nhợt nằm la liệt bên những người hấp hối, cơ
thể co giật dữ dội, miệng ứa ra một chất dịch màu vàng nhạt. Kết quả là tuyến
phòng thủ của quân Pháp bị phá vỡ và khí clo đã giết chết 3000 người và làm
7000 người bị thương.
118. Axit xitric có ở đâu ?
Trong thiên nhiên axit xitric có trong các loại quả chua (chanh, tai
chua), trong một số loại lá cây (bông, thuốc lá, thông).

Tinh thể có màu trắng, tnc
= 1530C, dễ tan trong nước. Axit xitric là sản phẩm trung gian quan
trọng của quá trình trao đổi các axit tricacboxylic trong cơ thể.
Axit xitric dùng làm chất bảo quản,
chất tạo vị trong công nghiệp thực phẩm. Trong nghiệp thực phẩm, axit xitric
chiếm hàng đầu trong số các axit hữu cơ. Axit xitric còn được dùng trong dược
phẩm và các chất tẩy giặt
119. Viên kim cương lớn nhất ngân hà
nằm ở đâu ?
Các nhà thiên văn Mỹ vừa phát hiện
ra một ngôi sao kim cương có đường kính 1500 km, cách Trái Đất khoảng 50 năm
ánh sáng được gọi là “Lucy”
Lucy hay BPM37093 có lõi đặc, nóng
của một ngôi sao cổ đã từng chiếu sáng giống như mặt trời. Tuy nhiên, ngôi sao cổ này đã nguội, và co lại. Các nhà thiên văn
thường gọi nó là: “Sao lùn trắng”. Gần đây các nhà thiên văn phát hiện ra rằng:
các vì sao không chỉ toả sáng mà còn “ngân vang” giống như một chiếc chuông
khổng lồ. Đo những rung động này, người ta có thể nghiên cứu thành phần bên
trong của Lucy. Từ đó, họ phát hiện ra rằng cacbon bên trong Lucy đã cứng lại
tạo nên khối kim cương lớn nhất ngân hà.
Từ đó, các nhà khoa học đã phỏng đoán rằng, Mặt Trời của chúng ta,
khi tàn lụi trong vòng 5 tỉ năm nữa sẽ kết tinh tạo ra viên kim cương khổng lồ
ở trung tâm Thái dương hệ.
Metcalfe nói: “Mặt Trời của chúng ta sẽ trở thành một viên kim cương
vĩnh hằng”.
120. Ai phát minh ra thép không gỉ ?
Đó là nhà khoa học Anh H.Brearley. Trong chiến tranh thế giới lần
thứ nhất ông được giao nhiệm vụ nghiên cứu cải tiến vũ khí, đặc biệt là vấn đề
nòng súng bị mài mòn rất nhanh. Ông đã thử pha crrom vào thép, song chưa vừa ý
nên bèn quẳng vào đống sắt gỉ ngoài phòng thí nghiệm.
Rất lâu sau ông thấy mẫu thử ấy vẫn sáng lóng lánh trong khi đống
thép gỉ hết cả.
Năm 1913 H.Brearley đã nhận được bằng phát minh độc quyền của nước
Anh. Ông đã sản xuất thép không gỉ trên qui mô lớn và trở thành “người cha của
thép không gỉ”
121. Ai được trao giải Nobel hoá học đầu tiên ?
Đó là nhà hoá học Hà Lan Jacobus H.Van’t Hoff (1852 - 1911) ông được
nhận giải Nobet vào năm 1901. Cho đến năm
2005 đã có 148 nhà khoa học được giải Nobel hoá học.
122. Ai được giải Nobel hoá học năm 2004 ?
Hai nhà khoa học người Israel Aaron Ciechanover và Avram Hershko và
một nhà khoa học người Mỹ Irwin Rose, đã nhận giải Nobel hoá học 2004 với số
tiền 1,36 triệu USD cho công trình của họ liên quan tới cách thức cơ thể tìm ra
những protein không thích hợp để tiêu diệt và tự bảo vệ mình khỏi bệnh tật.
Từ đầu thập niên 1980, ba nhà khoa học trên đã phát hiện ra một
trong những quá trình có tính chu kỳ quan trọng nhất của tế bào: quá trình
thoái hoá protein, quá trình này được kiểm tra tới từng chi tiết, protein nào
không thích hợp sẽ được “đóng dấu” bằng một phân tử đặc biệt được gọi là “nụ
hôn thần chết”. Những protein được “dán nhãn chết” này sẽ được đưa vào “giỏ
rác’ của tế bào gọi là proteasomes, ở đây chúng bị phân ra từng mảnh nhỏ và bị
huỷ diệt. Phân tử làm “nhãn” này được gọi là ubiquitin.
Khi việc thoái hoá protein này diễn ra không đúng, con người sẽ bị
ung thư. Kiến thức về protein điều tiết ubiquitin sẽ giúp người ta bào chế
thuốc chống một số loại bệnh.
123. Ai được giải Nobel hoá học năm 2005 ?
Đó là 3 nhà hoá học : Robert H.Grurbbs (Mĩ)
Richard Schorock (Mĩ) và Yves ChanVin (Pháp). Ba ông đã phát triển
phương pháp hoán vị trong tổng hợp hữu cơ. Trong phân tử chất hữu cơ, các
nguyên tử C liên kết với nhau và liên kết với các nguyên tử của các nguyên tố
khác theo một trật tự nhất định. Trong phản ứng hoán vị, các liên kết đôi bị
phá vỡ hoặc tạo thành do sự đổi chỗ giữa các nhóm nguyên tử nhờ những chất xúc
tác đặc biệt. Phương pháp hoán vị có nhiều ưu điểm vượt trội so với các phương
pháp tổng hợp cũ như ít phản ứng hơn, cần ít nguyên liệu hơn, tạo ra ít chất
thải hơn… Giải Nobel hoá học năm 2005 gồm tấm séc 1,3 triệu USD (chia đều cho 3
người) huy chương Nobel và bằng chứng nhận.
124. Ngũ vị là những vị nào và do chất gì sinh ra ?
Ngũ vị gồm: chua, ngọt, đắng, cay, mặn.
- Vị ngọt do đường sinh ra, đường là nguồn nhiệt lượng chủ yếu cho
cơ thể con người. Vị ngọt có tác dụng bồi dưỡng cơ thể, giải độc, làm giảm sự
căng thẳng cho cơ bắp.
- Vị chua do axit hữu cơ sinh ra. Vị chua có tác dụng kích thích sự
thèm ăn, tăng sức mạnh cho gan, nâng cao khả năng hấp thụ photpho, can xi.
- Vị đắng chủ yếu do kiềm hữu cơ trong đồ ăn sinh ra, có tác dụng
điều tiết gan, thận, lợi tiểu.
- Vị cay chủ yếu do kiềm ớt sinh ra. Vị cay kích thích sự co bóp dạ
dày, tăng cường sự tiết dịch tiêu hoá.
- Vị mặn chủ yếu sinh ra từ muối ăn (NaCl). Vị mặn có tác dụng giữ
cân bằng áp lực thẩm thấu giữa huyết dịch và tế bào, điều tiết quá trình trao
đổi muối, nước của cơ thể.
125. Đậu tương được sử dụng như thế nào ?
Từ đậu tương người ta chế biến ra nhiều món ăn hấp dẫn như tương,
đậu phụ, sữa đậu nành…
Những hạt đậu tương có hàm lượng những chất dinh dưỡng rất cao,
chúng cung cấp canxi, sắt và vitamin nhóm B cũng như chất đạm nhiều hơn hầu hết
các loại thực phẩm khác.
126. Loại rau nào được sử dụng nhiều nhất trên thế giới ?
Từ năm 1993, khoai tây đã đánh bại các loại rau khác trong đĩa thức
ăn của nhiều nước ở châu Âu. Khoai tây còn là món ăn cung cấp chất cacbohyđrat
như cơm và bánh mì.
127. Vì sao không nên pha sữa đậu nành
với trứng gà hoặc đường đỏ ?
Sữa đậu này có giá trị dinh dưỡng rất cao, có tất cả 8 loại gốc axit
amin cần thiết cho cơ thể, rất tốt cho việc bồi bổ, tăng cường sức khoẻ. Axit
béo không bão hoà trong sữa đậu ngoài tác dụng ngăn không cho mỡ đóng tầng
trong cơ thể còn có tác dụng làm đẹp da mặt. Vitamin B1 trong sữa đậu có tác
dụng phòng chống bệnh phù. Tuy sữa đậu là loại đồ ăn tốt như vậy nhưng cũng cần
phải biết cách dùng.
- Không được hoà sữa đậu với trứng gà vì chất abumin trong lòng
trắng trứng dễ kết hợp với chất tripxin trong sữa đậu thành những chất khó hấp
thu với cơ thể người, làm mất đi giá trị dinh dưỡng.
- Không được pha sữa đậu với đường đỏ vì axit hữu cơ trong đường đỏ
có thể kết hợp với protein trong sữa đậu, sinh ra những chất khó hấp thu với cơ
thể người. Với đường trắng thì không có hiện tượng này.
128. Có phải ăn cà rốt có tác dụng chữa bệnh ?
Cà rốt không chỉ là một loại rau có giá trị dinh dưỡng cao mà còn là
một vị thuốc có nhiều công hiệu.
Những nhân viên vô tuyến điện nên ăn nhiều cà rốt, bởi chất carôten
trong cà rốt có thể chuyển hoá thành vitamin A làm cho mắt người sáng hơn,
phòng được các bệnh khô mắt, quáng gà.
Gần đây các nhà nghiên cứu lại phát hiện ra rằng ăn nhiều càrốt sẽ
có khả năng phòng chống bệnh ung thư.
129. Gừng có những công dụng gì ?
Trong ăn uống gừng có nhiều công dụng như:
- Chống lạnh cho thức ăn có tính lạnh như bầu bí, các loại cải, các
món thuỷ sản (ốc, cua, cá), gia cầm ( ở miền Nam, vịt luộc phải chấm nước mắm
gừng), gia súc như thịt trâu, thịt bò… ốc hấp gừng là món đặc sản.
- Làm dậy mùi thơm ở bánh mứt, chè, rượu, bia…
- Chống nhiễm vi sinh vật (dưa, kim
chi…)
Trong phòng chữa bệnh, gừng có nhiều tác dụng:
- Chữa cảm lạnh, rối loạn
tiêu hoá
- Trong gừng có chất jamical có tính diệt nấm, mecin có tính diệt
khuẩn.
- Làm giảm mỡ máu, hạ thuyết áp, kích thích tiêu hoá... Do gừng có nhiều công dụng nên có
câu dao:
"Chua, cay, mặn, ngọt đã từng.
Gừng cay, muối mặn xin đừng quên
nhau"
130. Những chất dinh dưỡng nào có
trong sữa bò ?
Sữa gồm có chủ yếu là nước và những
giọt chất béo rất nhỏ phân tán trong nó. Sữa chua khi để yên thì chất béo sẽ
nổi lên mặt và có thể nhìn thấy được như
một lớp kem.
Sữa là một thực phẩm có chứa nhiều
chất dinh dưỡng như: vitamin và khoáng chất ~ 0,7%; chất đạm ~ 3,3%; chất béo ~
3,8%; cacbohyđrat ~ 4,7% và nước ~87,5%.
Sữa không béo là sữa mà phần lớn
chất béo đã bị loại ra khỏi sữa bằng máy. Sữa không béo tốt cho sức khoẻ hơn vì
nó có ít calo và ít chất béo hơn.
131. Kem được tách ra khỏi sữa bằng
cách nào ?
Kem được làm bằng cách gạn thành
phần kem ra khỏi sữa. Ngày nay kem thường được làm bằng máy.
Kem đặc chứa nhiều chất béo 48% cao
hơn món kem tráng miệng (38%) và kem có ít chất béo (18%).
Thành phần của kem gồm: Vitamin và
chất khoáng ~ 0,5%; chất đạm ~1,5%; chất béo (48%); cacbohyđrat ~2% và nước ~
48%.
132. Bơ được làm như thế nào ?
Ngày nay chiếc máy làm bơ cổ truyền
đã được thay bằng một cỗ máy phức tạp. Nó làm những giọt chất béo trong kem
dính lại với nhau để làm thành bơ. Sữa bơ, một sản phẩm phụ được lọc bỏ. Sau đó
bỏ được cắt ra và gói vào giấy kim loại hoặc giấy phủ sáp ong.
Thành phần của bơ gồm: Vitamin và
chất khoáng ~1,5%; chất đạm ~0,5%; chất béo ~83% và nước ~15%.
133. Làm phomat như thế nào ?
Biến sữa thành phomat là một phương
pháp cổ truyền để bảo quản sữa. Trong suốt quá trình này sữa được làm cho hơi
chua. Một loại enzim đặc biệt gọi là rennet được thêm vào và chất này kết chất
đạm trong sữa đặc lại thành sữa đông đặc. Sản phẩm lỏng, gọi là nước sữa, được
loại bỏ còn lại phomat được đỗ khuôn để chín tới. Các
loại phomat được làm chín và thêm hương vị bằng nhiều cách khác nhau.
Trong phomat có: vitamin và chất khoáng ~ 3%; chất đạm ~26% chất béo
~33% và nước ~ 38%.
134. Làm sữa chua như thế nào ?


thành sữa chua. Thường cho thêm đường và trái cây để tăng hương vị
và sự bổ dưỡng của sữa chua.
Thành phần của sữa chua gồm: Vitamin va chất khoáng ~ 2%
; chât đạm ~ 5%; chất béo ~0,5%; cacbonhyđrat ~12%; nước ~ 80,5%.
135. Bánh mì chứa những chất dinh dưỡng nào ?
Bánh mì là loại thưc phẩm chủ yếu trên thế giới. Bánh mì
được làm từ bột lúa mì, nước và men. Bột bì nhão được đặt trong một nơi nóng,
ẩm để men sản sinh chất khí làm bôt mì nhão dậy lên. Bột mì nhão có thể làm ra cả trăm loại hình
dạng bánh khác nhau.
Thành
phần của bánh mì gồm: Vitamin và chất khoáng ~1%; chất đạm ~9%; chất béo ~2%; cacbohyđrat ~
42%; nước ~ 38% và chất xơ ~ 8%.
136. Trứng chứa những
chất dinh dưỡng nào ?
Chúng ta ăn nhiều loại trứng
chim từ những cái trứng nhỏ bé của chim cút đến cái trứng khổng lồ của đà điểu.
Tất cả chúng đều giàu chất đạm, vitamin và chất
khoáng, đặc biệt là chất sắt. Lòng đỏ trứng là một kho dinh dưỡng.
Màu sắc, hình dáng những
quả trứng của các loài chim khác nhau thì khác nhau và không liên quan đến chế
độ dinh dưỡng của chim.
Khi trứng được nấu lên,
chất đạm sẽ đông đặc lại. Bằng cách dùng những thành phần hoặc cách chế biến
khác nhau, trứng được làm thành rất nhiều món ăn trên khắp thế giới.
137. Ai đã phát minh
ra mì ăn liền ?
Mì ăn liền do một người Nhật tên là Antohaiacưphưcư
phát minh vào năm 1958. Không bao lâu sau, mì ăn liền đã nhanh chóng được sử
dụng ở Nhật Bản và được quảng bá ra toàn thế giới. Mỗi sợi mì ăn liền dạng túi
dài khoảng 65cm, mỗi gói có khoảng 79 sợi. Như vậy tổng
chiều dài các sợi mì trong 1 gói là 51m. Hiện nay, Nhật Bản sản xuất 454.700
vạn suất mì ăn liền dạng gói, cốc, bát mỗi năm.
138. Vì sao rau quả thường được ngâm giấm ?
Một số thức ăn, thường là rau quả được ngâm vào giấm và
sau đó đóng vào một cái chai kín gió.
Giấm là dung dịch axit axetic (CH3COOH) có nồng độ 5%. Nó ngăn được sự phát triển của vi
khuẩn cho nên thức ăn được bảo quản.
Hành và dưa chuột là
những thức ăn được ngâm giấm thường gặp.
139. Chất béo không
calo là chất gì ?
Về mặt năng lượng, 1 gam
chất bột cũng như một gam chất đạm cung cấp 4 calo, còn 1 gam chất béo cung cấp
9 calo.
Tháng 1 năm 1996, cục
quản lí thực phẩm và dược phẩm Mỹ (FDA) cho phép dùng loại dầu nhân tạo olestra
trong chế biến thực phẩm.
Trong phân tử đường,
người ta tạo thành các polieste bằng 6 axit béo liên kết với gốc gluxit. Liên
kết này rất bền, không có một chuyển hoá hoá sinh nào phá vỡ được. Khi vào hê
thống tiêu hoá của cơ thể, phân tử tổng hợp này tuy có đầy đủ tính chất vật lí như
chất béo thông thường nhưng không tham gia trao đổi chất, không chuyển hoá,
tương tư như các chất xơ.
Một số loại bánh trước
đây phải rán bằng dầu, mỡ nay thay bằng olestra thì giá trị calo của chiếc bánh
giảm một nửa mà ăn vẫn béo ngậy như rán bằng mỡ.
140. Thực phẩm nào
dùng cho các nhà du hành vũ trụ ?
Các nhà du hành vũ trụ
phải ăn những thức ăn sấy khô - đông lạnh. Những thực phẩm sấy khô - đông lạnh
rất nhẹ nhưng vẫn giữ được hình dạng và màu sắc của chúng. Mùi vị của chúng
không được thơm ngon bằng thức ăn tươi nhưng chúng là nguồn cung cấp năng lượng
và dinh dưỡng dồi dào.
141. Cần chú ý gì để
tránh ngộ độc chì ?
Các đồ dùng bằng gốm có
hàm lượng chì cao khi gặp chất có tính axit trong sữa bò, cà phê, bia, nước
đường, nước hoa quả, nước rau thì lớp chì ở phần màu sẽ dần dần bị ăn mòn và
hoà tan vào đồ ăn. Qua ăn uống, chì sẽ xâm nhập vào cơ thể, khi nó đã tích tụ
đến một mức độ nhất định sẽ gây ra những chứng bệnh do ngộ độc chì như: hôn mê,
đau đầu, suy nhược cơ thể, lú lẫn đau khớp.
Để tránh bị ngộ độc chì,
ta không nên dùng các đồ đựng thức ăn bằng sứ có màu vàng, màu lam và màu hồng.
Chỉ nên dùng loại sứ không màu hay các đồ gốm mà mặt ngoài trơn nhẵn; vì các đồ
đó chứa rất ít chì, hầu như không đáng kể.
Để cẩn thận, khi mua đồ
đựng thức ăn bằng gốm về nên ngâm vào giấm ăn trong một thời gian dài để khử
chì.
142. Cần chú ý gì khi
dùng đồ nhôm ?
Đồ nhôm hầu như đã được
phổ biến trong mọi gia đình ở mọi quốc gia trên thế giới. Người ta ưa đồ nhôm
vì nó sạch sẽ, nhẹ, đẹp mắt, tiện lợi mà lại rẻ tiền.
Nhôm có hại cho cơ thể,
nhất là đối với người già.
Bệnh lú lẫn và các bệnh
não khác ở người già, ngoài nguyên nhân do cơ thể bị lão hoá còn có thể do sự
“đầu độc vô tình” của các đồ nấu ăn, đồ đựng bằng nhôm. Tế bào thần kinh trong
não của người già bị mắc bệnh não có chứa rất nhiều ion nhôm (Al3+)
nếu cứ dùng đồ nhôm trong thời gian dài sẽ làm tăng cơ hội để ion nhôm xâm nhập
vào cơ thể, làm nguy hại tới toàn bộ hệ thống thần kinh não.
Vì thế không nên dùng đồ
nhôm để đựng thức ăn, không nên ăn món ăn đựng trong đồ nhôm để qua đêm, không
nên dùng đồ nhôm để đựng rau trộn có trộn trứng gà và giấm.
143. Cần chú ý gì khi ăn rau cải trắng ?
Cải trắng là loại rau rất giàu vitamin và chất dinh
dưỡng nhưng nó cũng đồng thời chứa một lượng khá lớn muối của axit nitric (HNO3).
Nếu sau khi đã nấu chín rồi để trong thời gian quá dài do tác dụng của vi
khuẩn, muối của axit nitric sẽ biến thành muối của axit nitrơ (HNO2)
là chất dễ gây ra ung thư. Vì thế không nên ăn rau cải trắng đã nấu chín để qua đêm. Sau khi đã nấu
chín nên cho thêm vào rau một ít giấm ăn để tăng tác dụng dự phòng.
144. Làm thế nào để
tránh bị dị ứng khi ăn dứa ?
Dứa vừa có vị chua, vừa
có vị ngọt, có mùi thơm hấp dẫn và lượng dinh dưỡng cao.
Trong dứa có một chất
anbuminoit có tác dụng làm tăng cường sự phân giải protein vì thế sau khi ăn
nhiều thịt cá có lượng protein quá cao, khó tiêu thì nên ăn một ít dứa để kích
thích tiêu hoá.
Chứng dị ứng dứa là do
chất anbuminoit trong dứa gây ra. Chất này làm tăng tính xuyên thẩm cho niêm
mạc của dạ dày, dẫn đến hiện tượng protein trong đường ruột thấm vào máu do đó
gây ra chứng dị ứng.
Triệu chứng của dị ứng
dứa như nôn mửa, đau bụng, da bị phát ngứa lưỡi miệng bị tê, ra mồ hôi, hít thở
khó khăn...
Để tránh dị ứng dứa, sau
khi đã gọt vỏ cắt dứa thành miếng nhỏ, thả vào nước muối nhạt ngâm một lúc hoặc
cho vào nước sau đó làm tăng nhiệt độ để tẩy chất anbuminoit trong dứa.
145 - Giấy được phát
minh từ khi nào ?
Ông Thái Luân thời Đông
Hán, Trung Quốc đã phát minh ra giấy cách đây hơn 1900 năm. Từ đó nghề làm giấy
lưu truyền ra các nơi trên thế giới.
Phương thức sản xuất
giấy từ gỗ như hiện nay chỉ từ sau năm 1873 mới có.
146. Bút chì có từ
khi nào ?
Cách đây hơn 430 năm, ở
Pollod nước Anh phát hiện mỏ chì đen. Lúc bấy giờ người ta cắt những thỏi chì
đen thành que dài, kẹp giữa 2 miếng gỗ, lấy dây buộc lại để viết. Đó là cây bút
chì đầu tiên.
Khoảng 250 năm trước,
tức là năm 1975, Congtai người Pháp phát minh ra phương pháp trộn than chì với
đất sét rồi đem nung cứng thành ruột bút chì.
Cho đến nay, toàn thế giới
vẫn dùng phương pháp của CongTai để làm ruột bút chì.
· Cách làm bút chì màu thế nào ?
Nguyên liệu làm ruột bút
chì màu không phải là đất sét và than chì mà là bột màu và bột hoạt thạch... và
cũng không phải nung lửa nên ruột bút tương đối mềm. Sau khi làm xong ruột bút,
các bước khác giống như làm bút chì thường.
147. Diêm có từ khi
nào ?
Ra đời năm 1831, diêm
được kế thừa kết quả của sự phát triển của ngành công nghiệp hoá chất. Những
que diêm đầu tiên được nhúng vào hỗn hợp chứa photpho. Loại diêm này rất dễ bắt cháy và khá nguy hiểm.
Hai mươi năm sau, anh em
Lundstrom người Thuỵ Điển làm ra loại diêm mới, đầu tiên được nhúng vào một thứ
hồ có chứa lưu huỳnh. Diêm
bắt cháy khi được xiết vào bề mặt phốt pho đỏ: Loại diêm này có độ an toàn cao
nên gọi là diêm an toàn.
148. Chất gây mê được
sử dụng từ khi nào ?
Năm 1846, nha sĩ người
Mỹ tên là William Morton là người đầu tiên dùng ete để gây mê. Năm sau clorofom
được dùng trong một ca đỡ đẻ. Hơi của các chất gây mê ấy được hít vào qua mặt
nạ làm bệnh nhân ngủ thiếp đi và mất hết cảm giác.
149. Thuỷ tinh có từ
khi nào ?
Vào khoảng 3000 năm
trước công nguyên tại Syri hoặc ở những nước láng giềng lần đầu tiên thủy tinh
đã được chế tạo. Có lẽ nó được phát hiện do tình cờ khi nung cát trộn lẫn với
muối quặng của đất.
Trước khi sản xuất thủy
tinh, người ta đã sử dụng thuỷ tinh tự nhiên màu đen được tìm thấy gần núi lửa.
Những dụng cụ đầu tiên
bằng thuỷ tinh được làm ra bằng cách gia cô những khối thuỷ tinh hoặc nung nóng
chảy rồi đổ khuôn.
Việc thổi thuỷ tinh được
phát minh ra khoảng 100 năm trước công nguyên cũng tại Syri.
150. Thuốc súng bắt đầu được sử dụng từ khi nào ?
Người Trung Quốc phát
hiện ra cách sản xuất thuốc súng khi trộn muối ăn với than gỗ và lưu huỳnh. Họ
đã sử dụng chúng từ khoảng năm 650 của công nguyên dùng cho pháo hoa và để
chuẩn bị những vụ nổ.
Tại Trung Quốc, thuốc
súng được nhồi trong ống tre để làm ra bom và tên lửa (hoả tiễn). Người ta cho
thêm vào đó những viên đá và những mảnh sành. Ý tưởng sử dụng loại thuốc nổ này
để làm những quả đạn đại bác đã xuất hiện trong óc người Trung Quốc từ hồi đó.
151. Dầu mỏ là gì ?
Dầu mỏ là loại vật chất
có thể đốt cháy, con người thường dùng dầu mỏ làm nhiên liệu cho các động cơ
của các phương tiện giao thông. Dầu mỏ cũng là nguyên liệu để sản xuất chất dẻo.
Dầu mỏ là loại tài nguyên quan trọng nhất trên thế giới hiện nay.
Theo số liệu thống kê,
tổng trữ lượng dầu mỏ của toàn thế giới là 121,5 tỷ tấn, với tốc độ khai thác
2,9 tỉ tấn một năm như hiện nay, trữ lượng dầu mỏ chỉ còn đủ khai thác trong
hơn 40 năm nữa.
152. Nguồn gốc của
dầu mỏ thế nào ?
Dầu mỏ, khí đốt tự nhiên
và than đá đều là di thể các sinh vật từ thời cổ đại, biến đổi qua hàng triệu
năm mà tạo thành, do đó chúng còn được gọi là nhiên liệu hoá thạch. Trữ lượng
dầu mỏ và than đá trong lòng đất đều là có hạn, trong tương lai nhất định sẽ bị
khai thác hết. do đó chúng ta phải biết quí trọng nguồn tài nguyên quí giá này,
không được lãng phí.
153. Dầu mỏ có thành
phần như thế nào ?
Các thành phần nguyên tố chủ yếu trong dầu thô là cacbon
83 -> 87%; hidrô 11-> 14%; lưu huỳnh 0,1 - 4,5%; oxi và nitơ 0,54 - 3,6%.
Hợp chất chủ yếu là hiđrôcacbon và tỉ lệ các nguyên tố
nói trên có thể thay đổi theo khu vực.
154. Dầu mỏ được khai
thác từ khi nào ?
Ngày 27 - 8 - 1859, gần Titusvile ở Pensylvanie, ông William Drake đã khoan thành công đến độ
sâu 21 mét trong lòng đất. Một chất màu đen và nhờn liền phun lên trên mặt đất.
Đó là dầu mỏ.
155. Khí dầu mỏ được
sử dụng đầu tiên từ khi nào ?
Lần đầu tiên con người
sử dụng khi dầu mỏ tại Anh vào năm 1727. Năm 1760, Geore Dixon là người đầu tiên thắp sáng bằng
khí. Ánh sáng do khí đốt cung cấp sáng hơn đèn dầu.
156. Dầu mỏ được chế
biến như thế nào ?
Dầu thô được đưa vào
tháp chưng cất của nhà máy lọc dầu để phân tách, có thể phân chia các sản phẩm
dầu theo thứ tự trong lượng từ nhẹ tới nặng như sau: Dầu dễ bay hơi, xăng, dầu
hoả, dầu ma dút và dầu nặng.
Dầu thô khi đưa vào nhà
máy lọc dầu sẽ được đun nóng biến thành hơi, sau đó dần dần làm nguội, ở mỗi
nhiệt độ khác nhau sẽ thu được sản phẩm hoá lỏng khác nhau, đồng thời phân tách
riêng ra từng sản phẩm.
157. Chất nổ hoạt
động như thế nào ?
Khi một chất nổ hoạt
động, chỉ trong khoảng thời gian rất ngắn các chất hoá học mà nó chứa bên trong
sản sinh ra một lượng lớn khí và nhiệt. Các chất khí nóng này đột ngột tăng thể
tích và tạo ra sự nổ. Dưới sự giãn nở đó, sóng xung kích đã được tạo ra và
truyền vào không khí.
158. Thế nào là bom
nguyên tử (bom A)?
Bom nguyên tử có sức
nổ mạnh hơn rất nhiều lần so với bom
dùng chất nổ là các chất hoá học. Bên trong bom A có một lượng urani hoặc
plutoni, đó là những chất phóng xạ.
Để tạo nổ, người ta bắn
hai nửa hình cầu có chứa các chất này ở trong trái bom vào nhau. Khi đó có một
phản ứng dây chuyền sẽ xảy ra. Hạt nhân của các nguyên tử urani hoặc plutoni bị
vỡ ra dưới sự bắn phá của các hạt nơtron. Mỗi hạt nhân bị phá vỡ lại giải phóng
các nơtron và các nơtrơn này khuyếch đại thêm sự bắn phá... Tất cả những quá
trình trên chỉ diễn ra trong một phần giây và sự phân rã của hạt nhân đã giải
phóng ra một năng lượng khổng lồ. Năng lượng này tạo thành sức ép của vụ nổ,
nhiệt lượng và tia phóng xạ nguy hiểm.
159. Thế nào là bom
hiđrô (bom khinh khí ) ?
Năng lượng của bom hiđro
(bom H) không phải sinh ra từ sự phân rã hạt nhân của các nguyên tử nặng như
bom nguyên tử (bom A) mà là từ sự tổng hợp hạt nhân của các nguyên tử nhẹ:
Hiđro.
Sự giải phóng năng lượng
khổng lồ của bom H được sinh ra từ phản ứng nhiệt hạch:


(Đơteri) (Heli)
Sự tổng hợp hạt nhân này
diễn ra với sự mất đi của vật chất, nó chuyển hoá thành năng lượng trong một
phần nhỏ của giây. Do vậy mà sinh ra sự nổ.
Để cho phản ứng tổng hợp
hạt nhân xảy ra, cần phải có nhiệt độ rất cao do một quả bom A nhỏ tạo ra để
châm mồi cho quả bom H.
160. Lò phản ứng hạt
nhân hoạt động như thế nào ?
Trong lò phản ứng, hạt
nhân của các nguyên tử urani bị phá vỡ dưới sự bắn phá của các nơtron và giải
phóng rất nhiều nhiệt lượng. Khi bị phá vỡ chúng giải phóng các nơtron khác và
đến lượt mình các nơtron này trở thành các hạt bắn phá.. phản ứng dây chuyền
này được kiểm soát bởi các thanh than chì (grafit) nhúng trong lò phản ứng và
hấp thụ một phần các nơtron này.
Chất dẫn lưu được sử
dụng thường là nước hoặc khí CO2. Nó dùng để làm bay hơi lượng nước
trong một thiết bị trao đổi nhiệt. Sau khi đã làm quay tuốc bin của máy phát
điện, hơi nước này ngưng tụ để trở thành nước rồi lại đi về phía thiết bị trao
đổi nhiệt hoặc lò phản ứng.
161. Oxi có vai trò
như thế nào đối với sự hô hấp ?
Không khí là hỗn hợp gồm
72,9% nitơ; 20,94% oxi và một lượng nhỏ khoảng 0,16% gồm các khí cacbonic,
agon, xenon, heli...
Khi hô hấp, ta hít không
khí vào và thở ra khí CO2, N2, và một lượng nhỏ O2 chưa
sử dụng hết, ngoài ra còn có thêm một lượng nhỏ các chất là sản phẩm của những
phản ứng sinh hóa phức tạp diễn ra trong cơ thể như các loại hiđrocacbon, rượu,
amoniac, axit fomic, axit axetic, anđehitfomic và thậm chí cả xeton nữa.
Cơ thể cần được bổ sung
oxi thường xuyên. Dưới áp suất thường, nếu hàm lượng oxi thấp dưới 16% là bắt
đầu hiện tượng thiếu oxi, gây ra bất tỉnh đột ngột. Tuy vậy, chúng ta không thể
thở bằng oxit tinh khiết mà phải thở bằng oxi được pha loãng bằng khí nitơ. Nếu
thở bằng khí oxi tinh khiết thì ngay cả người khoẻ mạnh cũng chỉ sau 2 - 3 ngày
đêm là bắt đầu bị phù phổi.
162. CO2 lỏng và rắn có những công dụng gì?
Anhyđrit cacbonic (thường gọi là khí cacbonic) ở điều kiện thường là
khí không màu, nặng hơn không khí (tỉ khối so với không khí là
). Người ta thường nén khí cacbonic để nó hoà tan nhiều trong
các nước giải khát, như bia, coca cola tạo ra loại nước có ga.

Khí cacbonic ở điều kiện 400C
và nén dưới áp suất 197,4 atmotphe thì chuyển thành dạng lỏng.
Cacbonic lỏng là một loại dung môi
siêu đẳng vì dung môi này không độc so với các loại dung môi hữu cơ khác, giá
rẻ và không sợ cháy, nổ.
Dung môi cacbonic được dùng rộng rãi trong công
nghiệp thực phẩm như tách cafein trong cafe hoặc chiết hublôn trong hoa hublôn
dùng trong công nghiệp sản xuất bia. Người ta cũng dùng CO2 lỏng để
chiết chất béo trong các hạt có dầu.
Các chất được chiết trong các thiết
bị chịu áp, sau đó đưa ra ngoài, ở áp suất thường thì dung môi bay hơi hết chất
còn lại là cafein, cao hublon, dầu béo v.v...
Ở Mỹ người ta đã thử dùng CO2
lỏng để khử các chất hữu cơ làm ô nhiễm đất. Ngay thuốc trừ sâu DDT không bị
phân huỷ khi lưu trong đất cũng được cacbonic lỏng chiết ra.
Ngày nay, cacbonic lỏng được dùng
nhiều trong ngành công nghiệp sơn. Đầu tiên nó được làm dung môi để làm sạch bề
mặt vật liệu cần sơn, chủ yếu là tẩy sạch các chất béo.
Cacbonic lỏng được dùng làm dung môi
sơn nhờ một thiết bị chuyên dùng có khả năng điều tiết quá trình sơn. Sơn tương
ứng với loại dung môi đặc biệt này là sơn bột hoặc sơn nước.
Công nghiệp điện tử coi cacbonic
lỏng là dung môi cực tốt để làm sạch các vi mạch, mối nối, dây dẫn. Các dụng cụ
quang học, các thiết bị cơ khí chính xác, phức tạp cũng được tẩy sạch bằng dung
môi cacbonic lỏng.
Trong công nghiệp sản xuất dây cáp
quang có công đoạn kiểm tra bằng máy
quét . Khi dây cáp quang qua máy này thì phải có một loại dầu nhẹ bôi trơn. Chỉ
có dùng cacbonic lỏng làm dung môi mới làm sợi cáp quang đạt các chỉ tiêu kỹ
thuật.
Trong đời sống hàng ngày, việc giặt
là, tẩy hấp "khô" giặt "khô" thường dùng dung môi hữu cơ để
tẩy bẩn. Cacbonic lỏng cũng đang được khảo nghiệm trong lĩnh vực này.
Anhyđrit cacbonic dạng rắn còn gọi
là "băng khô" hay "nước đá khô" hoặc "tuyết
cacbonic", khi bay hơi chuyển sang dạng khí có thể làm nhiệt độ hạ xuống
tới - 78,50C.
Các loại xe lạnh có máy lạnh làm
việc trong suốt chặng đường tiêu hao nhiều nhiên liệu cho máy lạnh, đồng thời
dung tích chuyên chở và tải trọng của xe cũng giảm vì phải dành chỗ cho máy
lạnh cũng như tải trọng của nó. Ngày nay người ta chế tạo một loại xe đông lạnh
mà nguồn lạnh được cung cấp bởi CO2 rắn. Loại xe mới này có trang bị
máy tính để điều tiết sự bay hơi của CO2 rắn. Xe đảm bảo giữ lạnh
trong suốt 24 giờ vận chuyển với nhiệt độ từ 2 - 60C, có loại còn có
thể giữ lạnh đến - 180C. Đặc biệt xe còn vận chuyển các sản phẩm có
chế độ giữ lạnh khác nhau trên cùng một chuyến.
163. Thảm hoạ nhiễm độc thuỷ ngân
xảy ra ở đâu?
Năm 1932, sau khi nhà máy hoá chất
Chisso, Nhật Bản đi vào hoạt động thì họ đã dùng luôn vịnh Minamata làm nơi
chứa chất thải có chứa thuỷ ngân hữu cơ của nhà máy. Sau nhiều năm tích tụ, môi
trường biển đã bị ô nhiễm nghiêm trọng và đây là vụ ô nhiễm môi trường công
nghiệp lớn nhất ở Nhật Bản trong thế kỷ XX. Hậu quả là làm cho hàng nghìn người
nhiễm độc thuỷ ngân và hàng trăm người khác đến nay vẫn còn ảnh hưởng tới sức
khoẻ.
Những người dân ở đây, trước đó ăn cá
đánh bát trong vịnh đã phát bệnh. Triệu chứng ban đầu thường gặp là thị lực
giảm, nói khó khăn, có các cơn co thắt, những người nặng hơn thì bị co giật,
bứt rứt, phát điên và cuối cùng là tử vong.
Theo con số thống kê, trên 900 người
đã bị chết và đến tháng 4/1997 có trên 17.000 người được xếp vào diện nhà nước
phải cấp giấy chứng nhận "nạn nhân Minamata" và trên 12.000 người
khác được ghi nhận nhiễm độc thuỷ ngân.
Trong nhiều năm, những nạn nhân bị
nhiễm độc thuỷ ngân đã đấu tranh đòi bồi thường thiệt hại. Năm 1973 lần đầu
tiên nhà máy Chisso phải bồi thường một số tiền là 18 triệu yên. Năm 1996 chính
phủ Nhật đã chỉ thị cho công ty Chisso phải bồi thường tiếp 25,8 triệu yên cho
10.353 nạn nhân trước đây chưa được công nhận là nạn nhân và chưa được bồi
thường.
Sau hơn 26 năm duy trì lệnh cấm, đầu
năm 1998 chính quyền thành phố chisso mới bãi bỏ lệnh cấm và cho phép hoạt động
trở lại các dịch vụ đánh bắt cá tại vùng vịnh Minamata, do tình trạng ô nhiễm
thuỷ ngân tại khu vực này đã được khắc phục.
164. Khói thuốc lá độc hại như thế
nào?
Trong khói thuốc lá có đến 300 chất. Hầu như tất cả các chất hữu cơ
đều có mặt trong khói thuốc lá: hyđrocacbon no và không no, vòng thơm và vòng
thường, stearin, rượu, ete, axit, phenol, ancaloit (nicotin và dẫn xuất), các
hợp chất vô cơ của asen, đồng, sắt, thiếc, mangan, amoniac, oxit cacbon, oxit
nitơ, axit xianhyđric...
Những người không hút thuốc mà hít phải khói thuốc thường bị đau
đầu, viêm mũi và có nguy cơ bị ung thư phổi từ 30 - 40%. Còn người hút thuốc so
với người không hút thuốc thì nguy cơ ung thư phổi là từ 1000 - 2000 lần nhiều
hơn.
Ở Pháp, hàng năm có tới 60.000 người chết vì các bệnh có liên quan
đến việc hút thuốc lá và hít phải khói thuốc lá. Ở Mỹ, hàng năm có tới 12.000
người chết vì ung thư phổi do hít phải khói thuốc bởi sống chung với người
nghiện thuốc lá.
Nạn nhân đầu tiên là trẻ em. Người
mẹ hút thuốc sinh ra những đứa con nhẹ cân hơn những đứa con của người không
hút thuốc tới 200g. Những bé nhẹ cân này có nguy cơ bị ung thư, chậm phát triển
về trí tuệ và thường có tạng người thấp bé. Những đứa trẻ sinh ra từ các bà mẹ
hút thuốc có nguy cơ bị các bệnh hen, eczêma, mày đay tăng gấp 4 lần. Các bà mẹ
hút thuốc hay bị sẩy thai.
Nhiều việc điều tra cho thấy 42% trẻ
có bố (hoặc mẹ) hút thuốc và 51% trẻ có cả bố lẫn mẹ đều hút thuốc bị đau
amiđan hoặc sùi vòm họng trong khi tỷ lệ ấy ở các trẻ mà bố mẹ không hút thuốc
chỉ là 28%.
Rất nguy hiểm cho trẻ ở độ 3 - 4
tuổi thường xuyên chịu ảnh hưởng của khói thuốc vì lúc ấy phổi của trẻ đang ở
thời kỳ phát triển mạnh nên dễ bị hen suyễn, sưng phổi.
Nhận thức được sự nguy hiểm khi hít
phải khói thuốc lá, nhiều nước đã cấm hút thuốc ở những nơi công cộng như bến
tàu, bến xe, trên tàu, xe và ở những nơi làm việc, hội họp...
165. Những nguyên tố vi lượng nào
cần cho cơ thể?
Cơ thể con người có chứa tới 18
nguyên tố hoá học. Có 4 nguyên tố đa lượng là cacbon, oxi, hiđro, nitơ. Chúng
tạo thành nước, protein, xương, cơ và chiếm tới 96% trọng lượng cơ thể. Số còn
lại chỉ chiếm 4% nên gọi là các nguyên tố vi lượng (NTVL).
Các NTVL hỗ trợ các phản ứng hoá học
trong tế bào, giúp cơ thể sử dụng chất đạm, mỡ và đường, giúp làm vững chắc
xương và điều khiển cơ, thần kinh. Các NTVL còn tương tác với các chất khác
nhau như các vitamin.
Các NTVL, tuy chỉ cần một lượng rất
nhỏ song lại rất quan trọng vì khi thiếu chúng, chúng ta sẽ mắc những căn bệnh
nguy hiểm. Tất nhiên các NTVL nằm trong thành phần của các hợp chất và cơ thể
được cung cấp bởi thức ăn.
Sau đây là các NTVL rất cần thiết
cho cơ thể:
· Iốt: iốt điều hoà sự phát triển bình
thường của xương, sự phát triển của hệ thần kinh trung ương ở trẻ nhỏ. Thiếu
iốt tuyến giáp sẽ to ra, gây nên bệnh biếu cổ. Hàng triệu người trên thế giới
bị khuyết tật về tâm thần do cơ thể thiếu iốt. Iốt có nhiều trong hải sản. Hàng
ngày chúng ta nên dùng muối iốt (trộn 25mg KI vào 1kg muối ăn).
· Sắt: Sắt rất cần để hình thành hemoglobin trong hồng cầu. Sắt cũng
là thành phần của nhiều loại enzim. Thiếu sắt sẽ bị thiếu máu, biểu hiện qua
làn da nhợt nhạt, mệt mỏi, khó thở và giảm sức đề kháng.
Thức ăn chứa sắt cơ thể dễ hấp thụ bao gồm gan, tim và bồ dục. Những
thức ăn khác chứa nhiều sắt nhưng khó hấp thụ hơn là lòng đỏ trứng, cá, tôm,
cua, sò, hến, bột mì và rau xanh.
· Kẽm: gần 10 loại enzim cần có kẽm để hoàn thành các phản ứng hoá
học trong tế bào. Mất đi một lượng nhỏ kẽm làm cho đàn ông sụt cần, giảm khả
năng tình dục và có thể mắc bệnh vô sinh. Phụ nữ trong thời kỳ mang thai mà
thiếu kẽm sẽ làm giảm trọng lượng trẻ sơ sinh, thậm chí thai có thể chết. Một
số người có vị giác hay khứu giác bất thường do thiếu kẽm. Kẽm cùng cần thiết
cho thị lực, kẽm giúp cơ thể chống lại bệnh tật. Bạch cầu cần có kẽm để chống
lại nhiễm trùng và ung thư.
Nguồn thức ăn giàu kẽm là từ động vật như thịt sữa, trứng gà, cá,
tôm, cua...
· Mangan: mangan góp phần vào sự vững
chắc của xương. Phụ nữ lớn tuổi bị loãng xương có lượng mangan trong máu thấp
hơn so với phụ nữ cùng tuổi không bị loãng xương. Mangan
còn có vai trò quan trọng trong việc kiểm soát lượng insulin trong cơ thể.
Các thực phẩm giàu mangan gồm gạo, rau cải xanh, thịt, trứng, sữa...
· Crom: Các nhà nghiên cứu tại Bộ nông nghiệp Mỹ cho biết thiếu crom
liên quan đến sự hạ đường huyết làm cho bệnh nhân chóng mặt, cồn cào, nhịp tim
đập loạn xạ.
Gạo, thịt, men bia, phomat là những thứ chứa nhiều crom.
· Flo: Flo là NTVL quan trọng đối với sức khoẻ. Một hợp chất của flo
gọi là florua được 30 quốc gia cho thêm vào nước máy vì chất florua phòng người
hiệu quả các bệnh gây tổn thương răng. Nguồn flo rất phong phú trong lá chè.
· Selen: Từ năm 1957 các nhà khoa học đã nhận thấy một loại bệnh tim
có nguyên nhân do thiếu selen. Nhiều nghiên cứu cho thấy selen có thể giúp
phòng ngừa ung thư, bệnh tim và một số bệnh khác.
· Kali: Kali giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành các protein
và phá vỡ các cabohydrat. Nó cũng cộng tác với natri để truyền những xung thần
kinh giữa các tế bào và trong việc điều
tiết sự cân bằng nước.
Trái cây rất giàu kali, nhất là chuối,
cam, quýt. Thực phẩm tươi chứa nhiều kali hơn thực phẩm nấu chín. Nhìn chung sự
thiếu hụt kali hiếm khi xảy ra.
Ngoài các NTVL trên, một số NTVL khác cũng cần cho cơ thể như: asen,
bo, đồng, niken, silic...
Cơ thể cũng cần một lượng lớn các chất khoáng bao gồm canxi,
photpho, magiê, natri, kali và clo.
Các NTVL rất cần thiết cho cơ thể nhưng chỉ cần một lượng nhỏ, nếu
dư thừa chúng thì lại có hại. Chẳng hạn như quá nhiều sắt sẽ nguy hiểm vì làm
tổn thương tim, gan, tuỵ. Quá nhiều kẽm trong cơ thể có thể gây hại như nôn
mửa, đau dạ dày, yếu cơ và tổn thương thần kinh. Những nghiên cứu gần đây cho
biết hàm lượng kẽm cao trong cơ thể có liên quan đến bệnh mất trí, hay gặp ở
người cao tuổi.
Các bác sĩ khuyên chúng ta rằng cách tốt nhất để có thể nhận vừa đủ
các NTVL là cân đối khẩu phần ăn hàng ngày gồm hỗn hợp các thức ăn chế biến từ
lúa gạo, rau quả, thịt cá, trứng sữa.
166. Những món thường có trong ngày tết có ý nghĩa hoá học và nhân
văn như thế nào?
· Mâm ngũ quả: Tết nguyên Đán là tết lớn nhất trong năm. Ngày
tết, trên bàn thờ nhà nào cũng có mâm ngũ quả (5 loại quả). Mâm ngũ quả thể
hiện lòng thành kính và tưởng nhớ của con cháu với tổ tiên. Màu sắc và hình
dạng của các trái cây trong mâm ngũ quả tạo nên sự hài hoà và sang trọng của
bàn thờ, đồng thời cũng gây cho con người cảm giác hưng phấn, sảng khoái, tính
thẩm mỹ, gần gũi với thiên nhiên.
Triết lý cơ bản của mâm ngũ quả là: "con số 5 là số trung tâm
của vũ trụ; vũ trụ hình thành do tập hợp của ngũ hành: KIM, MỘC, THUỶ, HOẢ,
THỔ".
Số 5 đã đi vào tiềm thức của người Việt nam như ngũ tạng, ngũ quan,
ngũ sắc, ngũ vị, gậy trúc 5 đốt, áo bà ba 5 cúc...
Ngũ quả ấy là gì? Tuỳ theo cây, trái ở mỗi miền mà mâm ngũ quả cũng
khác nhau.
Ở miền Bắc, mâm ngũ quả gồm 2 loại quả chủ đạo là nải chuối xanh và
quả bưởi to còn nguyên cuống với cành lá. Ba loại quả khác thường là phật thủ, cam, quýt,
táo, hồng xiêm...
Ở miền Nam mâm ngũ quả cũng lấy nải
chuối làm chủ đạo. Ba loại trái cây khác thường là dừa, xoài, đu đủ, mãng
cầu... ý nghĩa dí dỏm là năm mới "cầu đủ xài".
Về ý nghĩa hoá học, mâm ngũ quả cung
cấp cho ta đường glucozơ cùng nhiều loại sinh tố (A, B, C,... ) các axit hữu cơ
và các chất xơ rất cần thiết cho hệ tiêu hoá.
· Xôi gấc: Xôi gấc là một loại thực phẩm sang trọng
thường được dùng trong các dịp lễ, tết như ngày tiễn ống Táo về Trời, lễ cúng
giao thừa. Màu đỏ của xôi gấc thể hiện lòng trung thành
và sự tôn nghiêm. Màu đỏ là màu của nhiệt tình và hi vọng, ý chí và vị tha,
quyền lực và bổng lộc. Vị ngọt của xôi gấc là do đường saccarozơ pha chế vào,
đồng thời cũng là vị ngọt của glucozơ do tinh bột thuỷ phân tạo ra.
Màu đỏ của xôi gấc chủ yếu do
caroten là licopen có trong gấc.
Caroten có công thức phân tử C40
H56 (chất màu vàng da cam có nhiều trong củ cà rốt) chứa 11
liên kết đôi C = C, hai đầu mạch là hai vòng b - ionon tạo nên một hệ liên hợp
những nhóm mang màu. Caroten có 3 đồng phân a, b, g trong đó đồng phân b có hoạt tính cao hơn cả. Sinh tố A hay caroten
trong gấc giúp trẻ con chóng lớn, tăng thị lực và chữa các bệnh về mắt làm cho
viết thương màu lành.
Licopen cũng có công thức phân tử là
C40H56 (chất màu đỏ có nhiều trong quả cà chua chín) có
13 liên kết đôi C = C trong phân tử.
Về mặt dinh dưỡng, cứ 100 gam xôi
gấc cho ta năng lượng khoảng 287,6 Kcal. Năng lượng này tạo ra do sự chuyển hoá
của 4,97 gam protein; 7,43 gam lipít, 48,37 gam gluxit, 5,53 gam caroten, 0,08
gam vitamin B1...
Như vậy xôi gấc là thực phẩm sang
trọng, mang tính thẩm mỹ và giàu năng lượng.
· Món cá: Các món ăn trong ngày tết rất phong phú và đa
dạng phần lớn được chế biến từ thịt lợn
(heo) và thịt gia cầm.
Các món ăn chế biến từ thịt lợn như
giò, chả, nem, ninh, mọc... dễ làm cho ta ngấy khi ăn. Từ xưa, ông cha ta đã
thấy rõ điều đó nên nhiều địa phương có tập quán chế biến món ăn trong ngày Tết
từ cá.
Trong cá có nhiều nguyên tố selen,
cơ thể chúng ta cần selen để cấu thành loại enzim, ngăn cản những gốc tự do gây
hại và là nguồn gốc của sự già nua. Như vậy selen trong cá góp phần chống lão
hoá, nó thanh xuân hoá con người.
Các nhà khoa học đã phát hiện rằng
người Eskimo ở Bắc cực ăn toàn mỡ cá không bị dư cholesterol, rất ít bị cao
huyết áp. Mỡ cá có các axit eicosapentaeoic và docosahexaeoic được gọi chung là
"Omega - 3 chưa no" gây phản ứng chuyển hoá lipoprotein, giảm tổng
hợp apolipoprotein beta, tăng lượng lipoprotein tỷ trọng cao là thành phần tốt
của cholesterol, giúp tạo ra màng tế bào cùng hocmon steroit và axit mật. Lipoprotein
tỷ trọng thấp mới là thành phần có hại, gây tắc động mạch.
Người Nhật có thói quen ăn mỗi tuần
từ 3 đến 5 bữa cá và thường ăn cá vào các dịp lễ tết hoặc chiêu đãi thượng
khách. Do ăn nhiều cá, ít ăn thịt mà tuổi thọ trung bình của người Nhật thuộc hạng
cao nhất trên thế giới.
167. Gốm thuỷ tinh có tính
chất gì ?
Các nhà khoa học ở một trường Đại
học của Đức chế tạo được một loại gốm thuỷ tinh kết hợp được cả tính chất của
thuỷ tinh và kim loại. Có thể gia công nó trên máy khoan, máy phay, có thể ren,
đánh bóng, làm nhám. Những chi tiết bằng loại thuỷ tinh này được nối với nhau
bằng ren vít như kim loại. Độ bền hoá học của vật liệu rất cao.
168. Dùng hêli làm nhiên
liệu cho tên lửa có ưu điểm gì ?
Ai cũng biết hêli rất trơ về mặt hoá học; khó
tạo thành hợp chất với các nguyên tố khác. Nhưng, các nhà khoa học Mỹ tại Trung
tâm hàng không và du hành vũ trụ đã điều chế được hêli phân tử, không bền và
rất dễ bị phân huỷ dưới tác dụng của nhiệt. Khi phân huỷ thành nguyên tử, hêli
sẽ tạo ra một nhiệt lượng rất lớn, tới 200 kcal/g, nghĩa là lớn hơn sinh nhiệt
của phản ứng mạnh nhất là H2và F2đến 40 lần. Các nhà bác
học đề nghị dùng heli phân tử làm nhiên liệu cho tên lửa. Nó có sức đẩy lớn hơn
các loại nhiên liệu khác, trừ nhiên liệu hạt nhân, lại có ưu điểm là không cho
sản phẩm cháy độc hại, làm ô nhiễm mà chỉ tạo ra khí trơ heli.
169. Tùng hương không lấy từ nhựa
thông có ưu điểm gì ?
Các chuyên gia Bungari đã chế tạo
thành công tùng hương từ các sản phẩm chế biến dầu mỏ. Về nhiều tính chất, tùng
hương nhân tạo đã vượt tùng hương thiên nhiên lấy từ nhựa thông và được dùng để
sản xuất các loại keo cao cấp, dùng trong công nghiệp giấy - xenlulôzơ.
170. Bộ lọc kim loại gốm được chế
tạo như thế nào ?
Viện kỹ thuật Vôrônez (Nga) đã
nghiên cứu được một loại bộ lọc mới bằng kim loại - gốm, bằng cách nung chảy
bột niken dưới áp suất. Bộ lọc này dùng để làm sạch khí khỏi bụi bẩn. Độ bền,
độ chịu nhiệt và chịu hoá chất cao, tái sinh đơn giản.. khiến nó sẽ được dùng
trong nhiều ngành khác nhau của hoá học, hoá dầu và luyện kim.
171 Màn chắn nhiệt làm bằng chất gì ?
Qua kính cửa sổ của những ngôi nhà hiện nay, ánh sáng lọt vào dễ dàng, nhưng nhiệt thoát ra cũng dễ
dàng. Để tránh hiện tượng đó, người ta đã tìm ra một loại màn chắn mới, treo
trên khung cửa sổ. Màn là một tấm pôlyeste, được phủ bằng phương pháp chân
không một lớp nhôm cực mỏng, Ánh sáng qua màn bình thường, nhưng 90% nhiệt bị
giữ lại.
172. Nylon được độn bằng cát dùng để làm gì ?
Nylon được độn bằng cát đã tỏ ra là một nguyên liệu tuyệt diệu để
chế tạo các chi tiết của ô tô. Nguyên
liệu này rất rẻ vì chất độn có thể lên tới 73%. Để tăng tính kết dính với
nylon, cát được xử lý sơ bộ bằng nhựa êpôxy hoặc rêsol trong dung dịch axêton
và xấy khô ở 750
173. Chế tạo sợi từ chai lọ như thế nào ?
Ở Anh, người ta đã đưa vào sản xuất nhà máy sản xuất sợi thuỷ tinh
từ vỏ chai lọ bỏ đi, và cả từ những mảnh chai lọ vỡ. Trước tiên, chai lọ được
nấu chảy rồi đùn khối thuỷ tinh nóng chảy này qua mũ phun sợi bằng thép và cuốn
vào ống suốt. Loại sợi thu được dùng để độn cho chất dẻo.
174. Tảo có thể thay thế than được không ?
Các nhà khoa học ở Califocnia đã thí nghiệm thành công về một nguồn
nhiệt năng mới, đơn giản và rẻ tiền. Họ thành lập một “trang trại” dưới đáy
biển để trồng tảo nâu Micro - cystis pyrifera. Loại tảo này lớn nhanh phi
thường, mỗi ngày dài thêm được 60 cm và có thể hấp thụ được các chất dinh dưỡng
từ nước biển. Tảo là nguồn chất hữu cơ phong phú. Dưới tác dụng của vi khuẩn,
nó bị phân huỷ và tách ra khí mêtan. Khi nhiệt phân, nó cho những chất tương tự
như thành phần dầu mỏ.
175.
Hàn bằng nước cất như thế nào ?
Các kỹ sư Đức đã tìm ra một phương
pháp hàn rất độc đáo. Để hàn những tấm thép, họ chỉ dùng nước cất và hai điện
cực có điện áp cao. Tại nơi cần hàn, dưới tác dụng của dòng điện, lúc đầu nước
cất bị phân huỷ thành oxy và hyđrô, sau đó, các khí này trong vùng hồ quang
điện sẽ lại tham gia vào phản ứng kết hợp. Nhiệt độ cháy sẽ đạt tới 34000
C.
Họ chế tạo được một thiết bị riêng
điều chỉnh được điện cực. Thiết bị này sẽ kiểm tra quá trình theo thời gian,
khi hàn điểm nhỏ, và hàn không những kim loại đen mà cả kim loại màu nữa.
176. Có thể dùng chất polime làm
kính quang học không ?
Giá trị của máy ảnh thường được xác định bằng
giá trị của những lăng kính. Chế tạo một lăng kính quang học rất công phu: Trước
hết, phải nấu chảy thuỷ tinh quang học, cắt, mài đánh bóng v.v… Từ lâu, các nhà
chuyên môn mơ ước thay thế thuỷ tinh bằng chất dẻo trong suốt, xử lý đơn giản
hơn và nhanh hơn.
Viện nghiên cứu Hoá hữu cơ ở Đức đã
đạt những thành công to lớn trong lĩnh vực này. Họ đã tổng hợp được lột loại
pôlyme cứng, hoàn toàn có thể thay thế thuỷ tinh. Vật liệu này nhẹ hơn thuỷ
tinh 2,5 lần và rẻ hơn đến 3 lần. Từ đó, người ta làm kính đeo mắt, ống nhòm,
kính cho máy ảnh, máy quay và chiếu phim, cũng như mọi thứ kính quang học khác.
Kỹ thuật làm lăng kính rất đơn giản:
chỉ cần ép chính xác, không cần mài, đánh nhẵn, vì sản phẩm có ngay một độ nhẵn
lý tưởng. Năng suất chế tạo cao hơn vật liệu thủy tinh hàng chục lần.
177. Có vàng từ trên trời rơi xuống
không ?
Một nhóm các nhà bác học Anh đưa ra
câu hỏi: có phải vàng trên Trái đất có nguồn gốc thiên thể không ? Họ chứng minh rằng chính những thiên thạch rơi xuống Trái đất trước
đây đã mang theo kim loại quý này.
178. Thuỷ tinh titan cón ưu điểm gì ?
Các nhà hoá học đánh giá cao
titan ở chỗ nó rất bền chống ăn mòn trong các thiết bị tổng hợp. Các nhà chế
tạo máy bay cho biết nó là vật liệu lý tưởng của ngành mình.
Gần đây, các chuyên gia công nghiệp thuỷ tinh lại quyết định: đưa
Titan vào thành phần của thuỷ tinh thay cho những kim loại khác. Thí nghiệm đã
thành công. Người ta đã chế tạo được những lăng kính có khối lượng riêng nhỏ,
bền mài mòn và có chỉ số chiết quang khá cao.
179. Aspirin có ích hơn khi ở dạng lỏng hay dạng viên ?
Hàng năm, người Mỹ tiêu tốn tới 500 triệu đôla vào aspirin viên.
Nhưng không phải dạng viên bao giờ cũng có lợi. Nó có thể gây ra viêm dạ dày,
dị ứng và những hiện tượng không mong muốn khác.
Các bác sĩ Mỹ đã đi đến kết luận rằng dùng aspirin dưới dạng lỏng là
hợp lý hơn. Sau khi khắc phục được khó khăn lựa chọn dung môi (biến tính bằng glixerol), thuốc sẽ có vị ngọt của
hoa quả.
180. Chất dẫn điện hữu cơ có những tính chất gì ?
Tại trung tâm nghiên cứu của công ty IBM, người ta đã điều chế được
các tinh thể hữu cơ, không thua kim loại về tính chất dẫn điện. Những tinh thể
này gồm hàng loạt phân tử mang điện tích dương và âm. Dòng điện đi qua được
những phân tử này. Ở nhiệt độ thường, độ dẫn điện của các tinh thể hữu cơ là
trung gian giữa một số kim loại và chất bán dẫn. Hạ nhiệt độ tới nhiệt độ đóng
băng ( - 400C), độ dẫn điện của chúng tăng lên, nhưng nếu tiếp tục
hạ nhiệt độ, chúng sẽ có tính bán dẫn.
181. Có thể chế nam châm từ chất hữu cơ không ?
Các nhà vật lý Pháp đã chế tạo được nam
châm từ những hợp chất hữu cơ.
Những tinh thể, chứa những nhóm nitrooxyl bền vững (chẳng hạn
têtramêtyl - Piperiđinol - ôxyl) có tính chất sắt từ. Nam châm phân tử ở đây là
những gốc tự do. Mặc dù nam châm hữu cơ chưa
tìm thấy ứng dụng trong thực tế, nhưng nó vô cùng thuận tiện đối với những thí
nghiệm thuần thuý khoa học.
182. Dùng màng mỏng pôlyamit để cách điện có ưu điểm gì ?
Đầu tầu điện cao tốc chạy trong thành phố của Công ty Deutsche
Bundesbahn (Đức) dùng loại động cơ được cách điện bằng màng mỏng Kapton (một
loại Poliamit ) của Công ty Dupont. Nhờ cách điện bằng loại vật liệu này, sức
kéo của động cơ đã tăng thêm 20% mà không cần tăng kích thước của nó. Vì Kapton
có tính cách điện tốt và rất bền dai nên có thể giảm 50% chiều dày của lớp cách
điện bọc dây dẫn của rôto và stato nên không cần tăng kích thước của động cơ.
Lớp cách điện của dây dẫn gồm 2 lớp: một lớp Kapton dày 25 micron và
một lớp Têflon để giữ nhiệt dày 12,5 micron.
183. Mỏ than dưới đáy biển nằm ở đâu ?
Gần bờ biển phía Tây của Châu phi, dưới đáy biển ở độ sâu 4000m,
người ta đã phát hiện ra một mỏ than rất lớn.
Theo ý kiến các nhà bác học, mỏ than này đã chứng minh giả thuyết
cho rằng xưa kia Châu Phi và nam Mỹ là một dải đất liền. Sau này, trong thời kỳ
hình thành Đại Tây Dương, lục địa chung này bị phá huỷ, tách ra thành 2 phần
(Châu Phi và Nam Mỹ). Phần giữa bị vùi sâu dưới biển. Những rừng cây rậm rạp
qua hàng triệu năm đã biến thành mỏ than này.
184. Dụng cụ gì làm sạch được nước ?
Đó là một dụng cụ điện tử được sản xuất ở Mỹ, kích thước như chiếc
bút chì, trong 10 - 20 giây, có thể biến nước ao, hồ thành nước uống được. “Bút
chì” khi được nối với pin làm xuất hiện những bọt nhỏ trong nước, trong đó bão
hoà những ion có khả năng sát khuẩn và các vi trùng gây bệnh thương hàn, tả,
kiết lỵ và các loại vi trùng gây bệnh khác.
185. Dùng sơn để sưởi ấm như thế nào ?
Ở những xứ lạnh, mỗi buồng thường phải bố trí một lò sưởi điện hoặc
hơi, bằng kim loại. Do vậy, lượng kim loại dùng trong mỗi căn nhà quá lớn. Liệu
có cách giải quyết khác không ? Các kỹ sư Anh đã đưa ra một giải pháp thú vị.
Họ sơn tường bằng một loại sơn dẫn điện. Bây giờ chỉ cần đấu 2 thanh góp bằng
đồng của một nguồn điện thế 12V vào tường, Khi đó, lớp sơn vừa là một nguồn
phát nhiệt để sưởi phòng vừa là một chiếc ắc quy. Lớp sơn bền được 40 năm làm
việc liên tục.
186. Tạo lớp phủ đồ gỗ bằng chất dẻo như thế nào ?
Người ta phun hoặc quét lên mặt đồ gỗ một loại nhựa mônôme urêtan
béo, sau khi trùng hợp trong không khí, tạo thành một lớp phủ đàn hồi (độ dãn
dài 400%), có thể chịu được hoàn toàn tác dụng của khí quyển, các chất hoá học
và ánh sáng.
Gỗ có thể bị uốn nứt mà màng phim vẫn không bị rách. Hơn nữa, ánh sáng không làm vàng màng phim do tính chất béo của
nhựa; khác với các véc-ni thông thường, chất này không hề bị nứt rạn
hoặc bong thành vẩy.
187. Vitamin và thuốc được chiết xuất từ gỗ loại cây gì ?
Các nhà nghiên cứu của Nga đã hoàn thành những phương pháp đặc biệt
để chiết xuất từ gỗ nhiều hoá chất dùng để chữa bệnh.
Từ gỗ cây lạc diệp tùng (méleze) chứa
nhiều chất thuộc nhóm vitamin P, đã lấy được ở dạng
tinh khiết chất đihiđrôquécxêtin có tác dụng củng cố thành mạch vi huyết quản
và giúp cho hoạt động của gan được dễ dàng, không độc đối với cơ thể; ngoài ra
có thể làm phụ gia bảo quản thực phẩm.
Người ta cũng rút được từ gỗ cây thông chất pinôsinvin và este-
mônôêtilic của pinôsinvin, là 2 chất có đặc tính chống nấm. Từ lá kim của cây
tùng bách cũng đã chiết xuất được một chất sinh học giúp cho việc tăng phẩm
chất sinh học giúp và giữ các hương thơm.
188. Chế phẩm nào dùng để rửa các bình đựng thuốc trừ sâu ?
Những thiết bị dùng để chứa và phun thuốc trừ sâu bệnh thường khó
rửa sạch, vì trong quá trình sử dụng có trộn thêm đất, bụi, tro, dầu mỡ, dung
môi.. Mới đây, xí nghiệp liên hiệp hoá chất Xêbêkin (Nga) sản xuất ra một chế
phẩm ở dạng dung dịch có khả năng phân huỷ đồng thời các tạp chất và các thuốc
trừ sâu còn sót lại thành những chất mới
ít độc Chế phẩm được đặt tên là
“complex” gồm có natri pecborat, sôđa, muối của các axit béo tổng hợp, triêtanôlamin,
mêtanol và nước. Ở 850C và trong thời gian 4 giờ, nó có thể phân huỷ
tới 98% mêtimeckaptôphôt và 80% thuốc 666.
189. Hoá chất nào dùng để diệt mầm cây ?
Ở những cây ăn quả, nếu có nhiều mầm và chồi non hoặc có các bụi cỏ
rậm mọc quanh sẽ ít quả, những mầm non và cỏ sẽ hút mất nhiều chất dinh dưỡng
của cây. Để khắc phục, trước đây, người ta vẫn dùng phương pháp chặt mầm và nhổ
cỏ. Hiện nay, ở Anh, người ta đã nghiên cứu một cách giải quyết mới và được
công nhận là tốt hơn dùng xẻng, cuốc, dao kéo như đã làm trước đây: đó là dùng
hoá chất điều chế trên cơ sở a - naptil
của axit axetic và các rượu thuộc nhóm alifatic. Thuốc này được phun vào tháng
5 khi mầm và chồi non cao khoảng 10 - 15 cm, sau đó vào giữa mùa hè lại phun
một lần nữa và như thế là có thể diệt được hết chồi non và cỏ rậm.
190. Pho mát và sôcola gây nên bệnh đau đầu ?
Các bác sĩ Anh đã nghiên cứu và giả thuyết rằng một trong những
nguyên nhân gây bệnh đau đầu ghê gớm có thể là những hợp chất hoá học có trong
phomat và sôcôla như các chất tiramin và phêninlêtilamin. Tiramin có thể bị
phân huỷ thành norađrênalin, chất này có tác dụng điều hoà hoạt động của não.
Trong cơ thể của những người khoẻ mạnh, những hợp chất này bị phân huỷ nhanh
chóng, còn những người yếu đau không có khả năng phân huỷ, nên gây ra đau đầu
ghê gớm.
191. Dùng keo dán nào thay cho hàn ?
Nếu một đường ống dẫn khi đặt dưới nước bị thủng, người ta thường
dùng phương pháp hàn điện đặc biệt ở dưới nước, nhưng mối hàn này thường không
chắc, không chịu được áp suất cao, nên thường là người ta khoá các đường ống
lại và mang đoạn ống hỏng lên mặt đất để hàn. Làm như vậy khá lâu, lại tốn kém,
đôi khi còn đắt hơn là thay một đường ống mới.
Viện nghiên cứu các hợp chất cao phân tử thuộc Viện Hàn lâm khoa học
ở Nga, đã điều chế ra một loại keo dán pôliurêtau có thể hàn dưới nước. Thành
phần keo dán này còn có chất hoạt động bề mặt, không cho nước làm ướt chỗ ống
bị thủng. Loại keo này hoá rắn nhanh dưới nước và tạo ra một mối hàn rất bền,
nên công việc sửa chữa những đường ống
đặt dưới nước không được còn là vấn đề phức tạp. Chỉ cần đặt một “miếng vá” có
tráng lớp keo poliurêtan lên chỗ ống bị thủng và sau ít phút, đường ống lại
hoạt động bình thường.
192. Sử dụng lại lốp xe cũ như thế nào ?
Người ta vừa nghiên cứu ra một phương pháp sử dụng lại lốp xe cũ vừa
giải phóng được chỗ để, vừa làm sạch nước thải.
Những lốp xe cũ được nghiền thành bột mịn và được dùng làm chất hấp
phụ để xử lý nước thải. Khi nước thải đi qua thì những kim loại nặng như chì,
côban… bị giữ lại hoàn toàn. Chất hấp phụ chính là than đen trong bột lốp ô-tô
(tỷ lệ của nó chiếm khoảng 1/3 trong lốp). Để tạo nên môi trường kiềm, người ta
cho thêm vôi vào. Ngoài ra, bột lốp xe cũ còn có thể pha với nhựa đường làm vật
liệu rải đường rất tốt.
193. Pôlime nào có tính chất kim loại ?
Viện nghiên cứu “Penxibau” (Mỹ) vừa điều chế ra một loại cao phân tử
nitrua lưu huỳnh (SN)x, ở dạng màng mỏng lấy tên là “Politiazin”.
Chất này có nhiều tính chất giống kim loại: các tinh thể của (SN)x
dễ bị chuyển dịch nên có thể ép thành những tấm mỏng. Độ dẫn điện của loại
polime mới này gần bằng độ dẫn điện của thuỷ ngân. Vì các mạch cao phân tử của
loại vật liệu mới này được sắp xếp song song với nhau nên khả năng dẫn điện của
chúng theo chiều dọc tốt hơn theo chiều ngang.
194. Có phải ô tô càng nhiều chất dẻo thì càng cần ít xăng ?
Hiện nay, trung bình một chiếc ô tô con của Mỹ đã dùng tới 80 kg
chất dẻo. Theo dự kiến thì các chi tiết bằng chất dẻo trong một chiếc ôtô con
có thể tăng lên gấp đôi và năm 1985 sẽ tăng lên gấp 3 lần. Không phải chỉ nhằm
mục đích thẩm mỹ và giải quyết vấn đề nguyên liệu mà càng nhiều chi tiết, phụ
tùng bằng chất dẻo, ôtô càng nhẹ đi, và chắc chắn là tiêu hao nhiên liệu càng thấp hơn.
195. Băng dính bằng chất gì có thể dùng để hàn tàu ?
Mới đây, người ta điều chế ra một thứ hoá chất dùng để hàn những tàu
đánh cá bị thủng. Các nhà hoá học của Viện nghiên cứu cao phân tử thuộc Viện
hàn lâm khoa học Ukrain đã điều chế ra một loại băng dính bằng chất dẻo thuỷ
tinh. Trong quá trình hoạt động, nếu tàu bị hỏng một chỗ nào đó thì người ta
không cần phải hàn mà chỉ đắp lên chỗ thủng một tấm băng dính bằng acrilat có
độ bền vững cao. Tấm băng dính này có thể khô cứng trong không khí ẩm hoặc ngay
trong nước ở nhiệt độ từ 0 - 350C. Chất kết dính là một sản phẩm
phức tạp gồm các este của axit mêtacrilic, đimêtil anilin và peroxit benzôin.
Tàu được hàn bằng phương pháp trên có thể chạy an toàn trên biển 3 năm liền.
196. Dùng pôliurêtan lót bình chứa có ưu điểm gì ?
Công ty Shell của Anh đã giới thiệu một phương pháp mới chống ăn mòn
cho các thùng chứa khí hoá lỏng bằng cách phun lên bề mặt bên trong của thùng
chứa bọt pôliurêtan. Bọt pôliurêtan còn là chất cách nhiệt và bao phủ tốt. Nó
có thể phủ cả những thùng chở amoniac ở nhiệt độ - 500C . Dùng chất
bao phủ mới này cho phép giảm thời gian chế tạo thùng và giảm giá thành đi 10%.
197. Sản xuất giấy từ pôliêtilen như thế nào ?
Ở Ý, người ta đã nghiên cứu một công nghệ sản xuất các vật liệu tổng
hợp dùng làm nguyên liệu để sản xuất giấy và cáctông. Vật liệu mới này gồm các
sợi pôliêtilen mỏng (2-4 micron), có bề mặt riêng lớn (30 - 50m2/g)
được đan với nhau. “Xenlulozơ tổng hợp” dễ bị phân tán trong nước, có thể trộn
theo bất kỳ tỷ lệ nào với xenlulôzơ thường. Người ta vẫn có thể dùng các thiết
bị sản xuất giấy bình thường để sản xuất loại giấy mới này.
198. Dùng chất dẻo làm vật liệu chế tạo
màng lọc có những ưu điểm gì ?
Người ta mới tìm thêm một công dụng của chất dẻo xốp dùng làm vật
liệu chế tạo các bộ phận lọc cho các động cơ pittông của máy bay. Chất dẻo xốp
có khả năng giữ lại những hạt bụi rất nhỏ thường làm bẩn chế hoà khí, khó bị
rách, không mất tính bền cơ học. Những phụ kiện lọc làm bằng chất dẻo xốp rẻ
hơn 8 lần các loại vật liệu khác thường dùng trước đây.
199. Sản xuất chất dẻo từ ngô dựa trên nguyên lí nào ?
Từ ngô, người ta điều chế ra glucôzơ và từ glucôzơ sản xuất ra chất
dẻo. Đó là nguyên lý chung nhất do các nhà bác học Nhật để xướng (vì ở Nhật
không có dầu mỏ nhưng lại có ngô). Loại cao phân tử mới sản xuất từ ngô được
gọi là “Polulen”. Polulen hoà tan trong nước nhưng cũng có thể không tan nếu
đem xử lý thêm. Người ta dự kiến rằng loại polime mới này có thể dùng để sản
xuất sợi và keo. Ưu điểm của nó là không sinh ra chất độc khi đốt, nên không
cần có bãi rác; dưới tác dụng của vi sinh vật, nó bị phân huỷ.
200.Chất chống mờ cho kính ô tô là chất gì ?
Để cho kính ô tô không bị mờ, người ta thường phủ bằng một lớp màng
mỏng loại pôlime trong suốt có khả năng thấm nước như chất poliôxiêtil
mêtacrilat. Nhưng rất tiếc là các màng acrilat thường bão hoà nước và khi dùng
sẽ mất khả năng chống nước. Các loại copôlime của các silic hữu cơ và oxialkilen
lại có tác dụng khác, làm giảm sức căng bề mặt của nước và phá huỷ các hạt nước
tạo thành. Nhưng những chất này lại tan trong nước, nên không bền vững bằng các
màng acrilat. Mới đây, các nhà bác học Mỹ đã thành công trong việc “lai giống”
hai loại trên và thu được một loại màng có khả năng chống mờ lâu dài cho kính.
Thành phần chủ yếu của chất mới này chưa được công bố, song người ta cũng cho
biết là trong đó poli-ôxiêtil mêtacrilat vẫn là chất chính.
201. Loại chất dẻo nào dùng làm bao gói
tránh ô nhiễm môi trường ?
Những chất dẻo dùng trước đây làm bao gói thường khó xử lý sau khi
sử dụng. Ở Anh đã nghiên cứu ra một loại chất dẻo mới làm bao gói. Những chất
dẻo thường dùng như PVC, pôliêtilen, pôlipropilen, pôlistirol được đem pha trộn
với tinh bột theo tỉ lệ từ 10 - 40%. Loại chất dẻo này dễ bị phân huỷ trong đất
và trong nước biển, do đó đã tránh được ô nhiễm môi trường. Hệ thống công
nghiệp đầu tiên sản xuất loại chất dẻo mới này đã được xây dựng ở Anh với công
suất 185 triệu bao gói/năm.
202. Có loại ắc quy mới nào dùng cho ôtô điện ?
Mới đây, người ta chế tạo ra một loại ăcquy mới dùng cho ôtô điện.
Những người chế tạo ra loại acquy này khẳng định rằng nó có nhiểu ưu điểm hơn
các loại ắc quy có trước đây. Người ta đã trang bị cho ôtô kiểu “Mustan 1975”
loại ăcquy mới này (trọng lượng 360 kg, dung lượng 42 kwh, điện thế 150v) cùng
với một động cơ điện. Trong điều kiện chạy trên đường phố, ăcquy này có thể
cung cấp điện để chạy 190 km mà không cần nạp lại.Trong khoảng 23 giây có thể
tăng tốc độ lên 120km/h và tốc độ tối đa là 130 km/h.
Người ta dùng sunfua sắt làm điện cực dương của ăcquy, còn điện cực
âm là hợp kim liti-nhôm. Dung dịch điện giải là hỗn hợp liti và kaliclorua.
203. Điều chế khí đốt từ chất thải nông nghiệp như thế nào ?
Ở Anh, hàng năm lượng chất thải nông nghiệp có thể lên đến 60 triệu
tấn. Những chất thải này phần lớn là chất hữu cơ, là nguyên liệu quý để sản
xuất khí đốt. Để sử dụng những chất thải này, người ta đã chế tạo ra hai thùng
tạo khí vi sinh vật dung tích 227 và 1362 lít. Máy tạo khí này là một thùng
bằng cao su, trong môi trường các chất thải dạng lỏng như phân chuồng. Các vi
khuẩn phát triển tạo ra khí mêtan. Dùng những thiết bị tạo khí kiểu này có thể
cung cấp khí cho vùng ngoại ô thành phố ở Anh làm nhiên liệu để đốt, sưởi ấm
cho các gia đình. Người ta còn đang nghiên cứu những thùng có dung tích lớn để
dùng cho các trang trại.
204. Loại sơn nào chống băng tuyết ?
Ở Phần lan người ta nghiên
cứu ra một loại sơn kị nước (thành phần
gồm có nhựa êpôxi và chất đóng rắn) có khả năng làm băng tuyết không bám vào
tầu. Sơn này tạo ra trên bề mặt kim loại một lớp màng rắn chịu nước, đồng thời
lại có hệ số ma sát thấp. Người ta dùng loại sơn này để sơn tàu đánh cá trên
biển Bắc. Khi đi biển, tàu không bị băng tuyết bám vào, và do hệ số ma sát của
màng thấp, nên tàu chạy nhanh hơn.
205. Dùng tia laze phát hiện độ bẩn của nước như thế nào ?
Để kiểm tra độ bẩn của nước, người đã ta dùng tia laze. Khi chiếu
tia laze xuống nước thì ánh sáng phản chiếu của nó được thu lại qua một máy
phân tích quang học. máy này sẽ ghi lại cường độ, phương của những tia phản
chiếu. Cường độ phản chiếu khác nhau tuỳ theo độ bẩn của nước. Bằng phương pháp
này, người ta có thể tìm được số lượng, tính chất của các chất bẩn trong trong
nước ở độ sâu tới 8 mét.
206. Có phải nọc kến là chất kháng sinh ?
Năm mươi năm về trước, có một loài sinh vật di cư từ phương Nam sang
nước Mỹ: kiến lửa. Khi đốt, kiến “tiêm” vào vết thương một chất độc, nhưng
không nguy hiểm chết người. Cho tới gần đây, người ta vẫn chưa xác định được
bản chất của nọc kiến mặc dù đã có giả thuyết chất độc ấy đồng thời là một chất kháng sinh. Những nghiên cứu mới
nhất đã khẳng định điều này. Nọc kiến làm chết những loại nấm mốc và đa số vi
khuẩn, trong số đó có các vi khuẩn gây bệnh như liên cầu khuẩn (streptocoque)
và tụ cầu khuẩn (staphi-locoque).
207. “Cắt” lông cừu bằng phương pháp hoá học như thế nào ?
Viện nghiên cứu khoa học nông nghiệp Pháp vừa tìm ra được một phương
pháp rất độc đáo để thu hoạch lông cừu và lông thỏ làm len. Người ta chỉ việc
cho chúng uống một liều lượng nhất định chất xiclofotfamit, hoàn toàn không độc
hại đối với chúng. Cừu thì sau một tuần sẽ rụng lông, còn thỏ thì chỉ sau 12
phút đã “tự nguyện” rũ bỏ bộ lông dầy và mượt của mình, trong khi nếu cắt lông
bằng phương pháp thường, mất ít ra là nửa giờ. Có điều… phải giữ những con vật
này 3 tuần trong chỗ ẩm để chờ chúng mọc lông.
208. Có thể dùng mật ong làm chất chỉ thị độ ô nhiễm môi trường
không ?
Chính loại mật ong bình thường lại là chất chỉ thị tốt cho ta biết
độ ô nhiễm môi trường. Nhà khoa học D-Liak tại trường Đại học Cornell kết luận
như vậy. Ông lấy những mẫu mật ong đặt tại nhiều vị trí khác nhau: bên cạnh
đường ôtô, nhà máy, mỏ quặng và so sánh với mẫu mật ong nguyên chất. Trong
những mẫu thí nghiệm đã phát hiện ra nhôm, bari, đồng, niken, mangan,
môlipđen.. tổng số tới 47 nguyên tố, nghĩa là gần một nửa bảng tuần hoàn.
209. Sơn khô cực nhanh, khô như thế nào ?
Ở Pháp, người ta đã bắt đầu sử dụng một loại sơn khô trong chớp mắt,
dưới tác của tia tử ngoại. Sơn này gồm mônôme và các chất, khi bị tia tử ngoại
chiếu vào lập tức biến thành hợp chất cao phân tử. Loại sơn mới rất vạn năng và
dùng được đối với bất cứ bề mặt như thế nào. Nó đặc biệt thích hợp với việc in
ofset nhiều màu, vì hiện nay tốc độ in của máy chỉ phụ thuộc vào tốc độ khô của
mực.
210. Sợi tổng hợp nào dùng làm quần áo cho các nhà du hành vũ trụ ?
Bộ quần áo của những nhà du hành trên con tàu vũ trụ “Liên hợp 19”
được may bằng một loại sợi tổng hợp gọi là “Lola”. Theo các chuyên gia, với các
tính chất độc đáo của nó, loại sợi này có thể dùng trong các ngành luyện kim và
tất cả những nơi cần các mặt hàng dệt chịu hoá chất và nhiệt độ lên tới trên
10000C. Vải dệt từ “Lola” trông tựa như len và hoàn toàn cách điện.
Không những Nga mà các xí nghiệp nước ngoài rất chú ý đến loại sợi này.
211. Cao su nào được dùng trong máy thay tim ?
Các nhà nghiên cứu thuộc công ty Goodycar Tire Rubber Co sau10 năm
phối hợp nghiên cứu cùng với các thầy thuốc đã tìm ra một loại cao su
pôliôlêfin mới, rất thích hợp để sản xuất các máy y cụ, thay thế cho hoạt động
của cơ tim. Vấn đề đông máu đã được giải quyết bằng cách phát triển một loại
nhung pôlyeste mới có phủ pôlyurêtan dẫn điện. Những trái tim nhân tạo này được
thí nghiệm thử với nguồn năng lượng ngoài và đã làm việc thành công trong suốt
94 ngày.
212. Xác định hàm lượng vàng bằng máy gia tốc như thế nào ?
Vàng có khắp nơi trong thiên nhiên. Trung bình cứ 1000 tấn đất chứa
khoảng 5g vàng. Thông thường, cần xử lý hàng chục nghìn mẫu các loại đất mới
xác định được vàng nằm trong lớp đất nào. Một nhóm các nhà nghiên cứu thuộc
Viện các vấn đề vật lý Mascơva đã phát hiện cách sử dụng máy Bêtatron để phân
tích các mẫu đất này. Các điện tử đã được gia tốc hoạt hoá các nguyên tử vàng,
phát ra tia X và chỉ cần đo lường bức xạ này trong không đầy 1 phút có thể xác
định được hàm lượng vàng trong mẫu đất. Máy xác định được những lượng vàng vô
cùng nhỏ bé, có nồng độ 1: 1300.000.
213. Kính hiển vi điện tử tham gia sản xuất phân bón như thế nào ?
Để nâng cao hiệu quả của công tác nghiên cứu và sản xuất, Viện hoá
vô cơ ở Ustinad Zabun (Tiệp khắc) đã kết hợp kính hiển vi điện tử PSEM - 500
với các thiết bị tính toán, và áp dụng tại các nhà máy. Thiết bị tổ hợp này đã
nghiên cứu tính chất cơ lý của phân bón tìm ra mối liên hệ trực tiếp giữa tính
chất vật lý của sản phẩm, cấu tạo tế vi của chúng và chế độ kỹ thuật, để từ đó
điều chỉnh trở lại quá trình sản xuất. Nhờ ở độ tự động hoá cao, thiết bị mới
làm việc có năng suất cao hơn cách phân tích và điều chỉnh sản xuất cũ nhiều
lần.
214. Trạm ôzôn lớn nhất thế giới ở đâu ?
Ở Mascơva (Nga) đã xây dựng xong một trạm phát sinh ôzôn lớn nhất
thế giới, có khả năng mỗi ngày xử lý 200.000m3 nước uống. Do số dân
tăng lên và thành phố được mở rộng không ngừng, nhu cầu về nước ngày càng lớn,
buộc phải hiện đại hóa và mở rộng các cơ sở cung cấp nước. Riêng để xử lý nước
phía tây thành phố, trạm đã phải cung
cấp 200 kg ôzôn trong 1 giờ.
215. Protein chế từ phế liệu xenlulôzơ như thế nào ?
Trường Đại học tổng hợp Luisana (Mỹ) đã nghiên cứu thành công một phương
pháp mới chế tạo protein đơn bào và đang đưa ra công nghiệp. Loại protein này đầu tiên được dùng làm thức
ăn cho gia súc và tiến tới làm thực phẩm cho con người.
Nguyên liệu để sản xuất ra nó là phế liệu xenlulôzơ cành cây, giấy
vụn, vải vụn cũ và các loại “rác” khác. Sau khi xử lý tạp chất người ta dùng
một loại vi khuẩn phát triển hết sức nhanh chóng, tạo ra một chất bột chứa 50%
protein. Năm 1978, sản phẩm mới này đã phổ biến trên thị trường.
216. Nước nào có chiếc tàu và là nhà mày sản xuất axit H2SO4
?
Tại thành phố Sêxin (Ba Lan), người ta đã đóng một loại tàu độc đáo:
tàu nhà máy. Hàng hoá đưa xuống tàu là lưu hùynh lỏng, một nguyên liệu nổi
tiếng và rất phong phú của Ba Lan. Trên đường đi, nguyên liệu này được chế biến
và khi tàu cập bến (thường là tại nước ngoài, hàng hoá bốc rỡ lên đã là.. axit
sunfuric. Thật tiện lợi: những khí thải trong quá trình sản xuất thoát ra ngoài
biển khơi, nên không gây ô nhiễm môi trường như trên đất liền. Nhiệt dư từ các
phản ứng được dùng để cất nước biển thành nước ngọt dùng cho các thuỷ thủ kiêm
công nhân sản xuất hoá chất trên tàu, để pha vào axit và dùng cho tuyêcbin hơi
nước của tàu.
217. Phương pháp nào sản xuất oxi rẻ nhất ?
Các nhà khoa học ở một trường Đại học của Đức đã chế tạo một loại
thiết bị mới sản xuất oxi nhờ rây phân tử, để giữ lại khí này từ không khí. Kết
quả thu được hỗn hợp khí chứa 80% oxi. Cho đến nay, phương pháp này là phương
pháp đơn giản nhất và cho khí oxi rẻ nhất trong công nghiệp.
218. Nâng cao chất lượng của gang bằng cách nào ?
Thêm nguyên tố đất hiếm ytri vào gang xám nóng chảy làm tăng rõ rệt
tính chất của gang: độ bền, độ dẻo, tính chịu nhiệt. Thay đổi tỷ lệ ytri có thể
điều chỉnh được tính chất của gang trong một giới hạn rộng. Không những làm
gang thêm bền, nguyên tố này còn có tác dụng khử các tạp chất có trong gang.
Loại gang này đã sử dụng trong ngành chế tạo máy và nâng cao được chất lượng và
tuổi thọ nhiều thiết bị.
219. Lò so thủy tinh có ưu
điểm gì ?
Các nhà khoa học Nga đã chế tạo được một loại lò so bằng thuỷ tinh có
độ bền lớn và độ đàn hồi cao. Nó có tính ưu việt hơn lò so bằng thép ở chỗ
không bị ăn mòn trong môi trường xâm thực, chịu nhiệt và không có biến dạng dư.
Kỹ thuật đặc biệt cho phép khắc phục được tính ròn của thủy tinh. Những chiếc
lò so mới này đã bắt đầu thay thế thép trong ampe kế, vôn kế, cân chính xác,
dụng cụ đo địa chấn và đồng hồ, đặc biệt những chiếc lò so bằng kim loại quý và
đắt tiền trong các dụng cụ vật lý chính xác.
220. Sự ăn mòn có lợi khi nào ?
Các chuyên gia Mỹ đã giải quyết vấn đề nhiễm bẩn thiên nhiên nhờ
hiện tượng ăn mòn. Các loại rác dưới dạng bao gì bằng kim loại, chất dẻo, giấy,
gỗ… phải vứt vào những thùng rác vừa được sản xuất hàng loạt, có hai lớp vỏ
bằng 2 thứ kim loại khác nhau (như sắt và nhôm chẳng hạn), ở giữa, có một lớp
muối, dễ hút ẩm. Đóng hộp lại, các thùng rác trở thành những chiếc “pin”, và
quá trình ăn mòn điện hoá bắt đầu xẩy ra. Qua vài tuần, những thùng rác này
biến thành một đống bụi xám nhỏ.
221. Ở điều kiện nào nước đã có tinh kim loại ?
Ngày nay, người ta đã điều chế được hàng chục loại tinh thể nước
khác nhau nhờ áp suất, nhưng mới đây lại phát hiện thêm một loại nước nữa. Ở
nhiệt độ -800 và dưới áp suất hàng triệu at-môt-phe, nước đá, kẹp
giữa 2 tấm kim cương, sẽ có những tính chất của kim loại: từ chất điện môi điển
hình thành chất dẫn điện. Tính chất này của nước thể hiện cả trong khoảng không
gian vũ trụ.
222. Kim cương tổng hợp được điều chế như thế nào ?
Các nhà hoá học Nga lần đầu tiên đã thu được kim cương tổng hợp dưới
áp suất thường. So với những thiết bị nặng nề và công suất lớn trước đây thì
thiết bị mới này rất đơn giản. Nó chỉ bằng thuỷ tinh, vì không cần đến các vật
liệu chịu áp. Việc chế tạo kim cương đòi hỏi phải cực kỳ chính xác. Chỉ một sai
sót rất nhỏ so với điều kiện làm việc tối ưu cũng làm cho kim cương bị phủ một
lớp graphit. Kim cương điều chế trên thiết bị mới không khác lắm so với kim
cương thiên nhiên.
223. Hợp kim nhôm đặc biệt có ưu điểm gì ?
Sau nhiều năm nghiên cứu, các nhà khoa học Anh đã nghiên cứu ra một
loại hợp kim nhôm, đặt tên là Surpral. Vật liệu này có nhiều tính chất quý báu:
dẫn nhiệt và dẫn điện rất tốt, độ bền cao, sáng bóng, đồng thời lại có tính dẻo
phi thường. Một mẩu Supral đun nóng nhẹ có thể kéo dài ra 10 lần. Từ hợp kim
này có thể chế tạo các đồ vật có hình dạng rất cầu kỳ, nên được dùng làm khuôn
đúc chất dẻo. Người ta cho rằng càng ngày vật liệu mới này càng có nhiều ứng
dụng kỹ thuật.
224. Sản xuất glucozơ không cần axit như thế nào ?
Các chuyên gia Đức đề nghị một phương pháp hoàn toàn mới để sản xuất
glucozơ không dùng axit mà dùng men để phân huỷ tinh bột. Hiệu suất so với
phương pháp cũ tăng gấp đôi. Nhưng người ta cho rằng ưu điểm chính của phương
pháp là ở chỗ: glucôzơ thu được có chất lượng siêu tinh khiết
225. Có cách nào xác định nhanh nitơ trong đất ?
Một phương pháp mới, nhanh chóng và chính xác để định lượng nitơ
trong đất ra đời ở Mỹ, rút ngắn thời gian phân tích được 20 lần. Chỉ việc trộn
đất với một loại sơn đặc biệt, có tính chất hấp thụ các chất đạm trong đất, và
tăng cường độ màu. Mang so sánh với mẫu tiêu chuẩn, sẽ biết trực tiếp nồng độ
các hợp chất của Nitơ.
226. Lớp vỏ bảo quản rau quả bằng chất gì ?
Các nhà hoá học Nhật đã tìm ra một công thức chế tạo các lớp vỏ cho
quả, rau, trứng, bơ.. cần phải bảo quản trong một thời gian dài. Thành phần để
chế tạo lớp vỏ tổng hợp là zêlatin, tinh bột khoai tây, sôđa và một vài chất
phụ gia khác. Bằng lớp vỏ này, có thể giữ các sản phẩm nói trên tươi lâu hơn
giữ trong tủ lạnh đến 5 lần.
227. Quần áo người nhái bằng silicôn có tác dụng gì ?
Các nhà hoá học Nhật Bản phối hợp với các nhà sinh vật đã chế tạo
những bộ quần áo người nhái dùng cho thợ lặn bằng silicon. Nó giúp cho người ta
ở lâu hơn dưới mặt nước để hoàn thành một công việc nào đó. Bộ quần áo người
nhái này gồm nhiều lớp silicôn, có khả năng hấp thụ oxi tan trong nước và thải
trực tiếp được khí cacbônic qua mặt nạ thở.
228. Tác dụng kép nào cho ngô của thuốc trừ cỏ?
Hungari đã tổng hợp và sử
dụng rộng rãi một loại thuốc trừ cỏ cho ngô, gọi là “Hungazin”. Ngoài tác dụng
trừ cỏ rất hiệu lực và tác dụng 2 - 3 năm, nó còn kích thích sự sinh trưởng của
cây ngô, rút ngắn thời gian trồng trọt. Hungazin đáp ứng đầy đủ những tiêu
chuẩn ghi trong luật bảo vệ môi trường.
229. Hợp kim của kim cương có
ưu điểm gì ?
Đó là tên gọi của một loại vật liệu mới do công ty Dunlôp (Mỹ) sản
xuất. Tuy không phải hợp kim, nhưng thành phần của nó gồm niken và kim cương
tổng hợp ở dạng bột. Khi hàm lượng kim cương trong vật liệu lên tới 30%, độ bền
mài mòn của nó rất cao, thuận tiện để phủ lên các chi tiết hoạt động của máy
móc thiết bị. Nói chung, thời gian làm việc của các chi tiết có phủ vật liệu
này tăng lên tới 6 lần.
230. Sơn chống cháy ngăn cản
sự cháy thế nào ?
Ở Hungari, người người ta đã chế tạo được một loại sơn chống cháy
cho các vật liệu dễ bắt lửa như gỗ, giấy, cactông… Chỉ cần phủ lên bề mặt một
lớp sơn: dưới ảnh hưởng của nhiệt độ, nó sẽ phồng lên và ngăn cản sự cháy. Khi
nhiệt dộ lên tới 1200C, sơn biến thành một lớp xốp, có tính cách
nhiệt và có khả năng dập tắt cháy. Thêm chất phụ gia đặc biệt, loại sơn này
chịu được nhiệt độ 9000 trong 3 - 5 giờ.
231. Làm cho rơm rạ có vị ngọt như thế nào ?
Ở Viện nghiên cứu về chăn nuôi ở Ukrena đã nghiên cứu cho kiềm tác
dụng lên rơm rạ ở áp suất 150 atmôtphe; xenlulozơ sẽ chuyển hoá thành đường
saccrôzơ và một số chất khác dễ đồng hoá. Nhờ thế rơm ạ có mùi thơm, vị ngọt và
hàm lượng chất dinh dưỡng tăng lên gấp đôi.
Bò đực ăn loại rơm này có thể tăng trọng từ 1000 - 1200 g/ngày.
232. Lớp bảo vệ đường ống dẫn dầu bằng chất gì ?
Những tạp chất chứa trong dầu như H2S, CO2,
các loại muối và một số chất khác nữa làm cho kim loại nhanh chóng bị ăn mòn.
Để bảo vệ các đường ống dẫn dầu, người ta tráng bên trong một lớp phủ mới có
tính chất khác hẳn các loại thường dùng: chỉ gồm hai cấu tử khá phổ biến là
nhựa phênol focman-đêhit và epoxy. Hỗn hợp này dễ dàng tráng lên đường ống và
rất mau khô trong bất cứ điều kiện nào, ngay cả ở nhiệt độ gần 00C.
233. Có phương pháp sinh hoá nào tiêu huỷ chất thải ?
Ở Anh, mới đây đã sản xuất ra một loại chất sinh hoá được gọi là
“Fenobac”. Chất này cho phép giảm được tác dụng độc hại đến môi trường xung
quanh của các hoá chất như dầu mỏ, sản phẩm dầu mỏ cũng như các chất hữu cơ
khác.
Loại thuốc phân huỷ bằng phương pháp sinh hoá này dùng để xử lý các
nguồn nước ăn. Trong một gam “Fenobac” chứa 1 tỷ vi khuẩn rất phàm ăn những
chất như benzen, xăng, phênol, naphtalen và dầu mỡ.
234. Có phương pháp nào làm sạch khí thải của ôtô ?
Các chuyên gia Anh vừa chế
tạo được một máy lọc để thu hồi chì từ khói thải của ôtô chạy bằng xăng có chỉ
số ốc tan cao.
Thành phần chính của máy lọc gồm một lưới bằng bông thép mạ hiđroxit nhôm và natri phốtphát hoặc kali
cacbonat.
Việc đặt máy lọc vào ôtô làm tăng giá ô tô lên 10 bảng Anh và không
ảnh hưởng đến hoạt động của động cơ. Máy lọc này cũng có thể đặt vào các loại
ôtô khác chạy bằng dầu điêzen để lọc muội than và các tạp chất khác trong khói.
235. Sản xuất axit phôtphoric
tinh khiết theo công nghệ mới như thế nào ?
Tại Pháp, người ta đã sản xuất axit phốtphoric tinh khiết theo hương
pháp mới ở quy mô công nghiệp. Ở giai đoạn đầu, người ta chiết axit phốtphoríc
bằng izôbutanol và rửa phần chiết bằng xút. Tuỳ theo yêu cầu về độ tinh khiết
sản phẩm, tiếp tục chiết axit bằng izôbulanôl, dung dịch kiềm, nước hoặc axit
phôphoric loãng, Izôbutanôl sau khi tham gia vào quá trình được tách khỏi axit
bằng cách chưng cất.
236. Loại chất dẻo nào nhạy với ánh sáng ?
Trước đây, người ta dùng loại kính đen để bảo vệ mắt thợ hàn khỏi bị
những tia sáng chói khi hàn. Loại kính này có nhược điểm là thợ hàn luôn luôn
bị một màu đen che kín mắt, khó quan sát chất lượng mối hàn. Ngày nay, người ta
đã chế ra một loại chất dẻo rất nhạy cảm với ánh sáng gọi là Compound-224 để
sản xuất kính cho thợ hàn. Khi hàn, những tia chói chiếu vào chất dẻo làm cho
chất dẻo lập tức bị đen lại và có thể giữ được 99% ánh sáng. Sau một giây, khi
hết ánh sáng hàn đó, chất dẻo này lại trở lại trong suốt như trước.
237. Phân bón từ phế liệu nhà máy thuộc da có ưu điểm gì ?
Ở Viện nghiên cứu khoa học
thuộc công nghiệp giầy da tại Ukren người ta đã nghiên cứu ra một phương pháp
xử lý phế liệu da để làm phân bón cho rau. Sản phẩm là một loại bột màu xám có
chứa 9 - 14% đạm, 5% chất béo, 3-4% oxit crôm, , 7-8% tro. Ngoài ra, sản phẩm
này còn giàu nguyên tố vi lượng như kẽm, đồng, bo, môlipden, man-gan. Nó có thể
được sử dụng như là một loại phân phức hợp để bón cho rau, nho, các loại cây có
tinh dầu.
Người ta đã tiến hành thí
nghiệm 2 năm loại phân bón này trên các cánh đồng và khẳng định hiệu quả sử
dụng cao của nó: thu hoạch khoai tây tăng 30%, cà chua 35%.
Tại nhà máy liên hợp giày da, người ta đã xây dựng xưởng sản xuất
phân bón, và qua tính toán kinh tế kỹ thuật, đã dự tính rằng vốn xây dụng xưởng
sẽ được hoàn lại sau một năm.
238. Keo dán gạch và thạch anh có ưu điểm gì ?
Ở Acmêni, người ta đã nghiên cứu thành công một loại keo dán ở nhiệt
độ cao trên cơ sở các hợp chất vô cơ mônô oxit kẽm, oxit silic, bo và axit octo
-phôtphoric. Keo này đóng rắn ở nhiệt độ tương đối thấp (khoảng 1500 C)
và bền vững ở nhiệt độ rất cao 11500C. Nó có thể dán gạch, graphit, kim
loại, thạc anh và thuỷ tinh. Có thể sử dụng nó vào việc che phủ để bảo vệ,
chống ăn mòn.
239. Những ngôi nhà băng cát được xây ở đâu ?
Trên những khu đất vỡ hoang ở Kha-u-dơ-khan gần thị trấn Tết -gien
(Tuốc-mê-ni), xuất hiện những ngôi nhà xinh đẹp. Những toà nhà đó đã được xây
bằng… cát lấy tại chỗ, trong xa mạc Ka-ra-Kum
Những nhà bác học ở Mat-scơ-va đã đề xuất việc dùng cát là nguyên liệu xây dựng chủ
yếu. Phương pháp này vừa đơn giản lại vừa độc đáo: cát được trộn với ximăng,
bột nhôm và bồ tạt theo tỷ lệ xác định. Sau khi xử lý hỗn hợp bằng không khí
nóng, người ta được một chất liệu xốp, gọi là “ga-dô-bê-tông”, bền vững như
gạch nung, nhẹ bằng nửa bê tông thường, và cách nhiệt tốt.
Giữa những cồn cát của xa mạc Ka-ra-Kum, người ta đã xây dựng nhà
máy đầu tiên sản xuất những cấu kiện nhà lắp ghép bằng nguyên liệu này.
240. Ngọc xa phia nhân tạo được sản xuất ở đâu ?
Một phòng thí nghiệm tự động sản xuất những viên ngọc xa phia nhân
tạo đã bắt đầu hoạt động tại Viện nghiên cứu đơn tinh thể Khác - cốp. Lần đầu
tiên, trong những lò điện mạnh, người ta đã tạo ra được những viện ngọc có đủ
các hình dáng, không phải xử lý thêm nữa.
Ngọc xa phia có những đặc tính đặc biệt không có chất gì thay thế
được. Nó vẫn trong suốt ở nhiệt độ mà các kim loại bắt đầu nóng chảy, và người
ta có thể dùng để chế tạo những đèn chiếu sáng cực mạnh.
241. Phát hiện người nghiện rượu bằng cách nào ?
Bác sĩ Spencer -Shau và nhóm cộng tác với ông ở Bệnh viện ở Brenx
(Niu - Ooc) đã nghiên cứu thấy rằng trong huyết tương người nghiện rượu có một
lượng rất lớn axit aminô-n-butyric. Trong huyết tương người bình thường vẫn có
mặt axit amino này, nhưng ở người nghiện rượu tỷ lệ axit amino đó ít nhất cao
gấp đôi và tỷ lệ đó vẫn duy trì dù người nghiện đã nhịn rượu trong nhiều ngày. Người
ta chưa giải thích được nguyên nhân làm tăng tỷ lệ axit amino-n-buturic trong
huyết tương người nghiện rượu.
242. Bê tông chất dẻo, bền hơn nhựa đường như thế nào ?
Thông thường người ta phủ mặt đường bằng một lớp “nhựa đường” gồm có
nhựa, dầu hoả trộn với đá hoặc sỏi. Sau nhiều năm nghiên cứu, các công ty SCREG
và Rhône Pou-lenc (Pháp) đã thành công sử dụng ở quy mô công nghiệp nhựa than
đá làm chất kết dính, trộn với một tỷ lệ cao các phế liệu PVC cán vụn, tạo
thành một loại bê tông hyđrôcacbon có những đặc tính ưu việt để phủ mặt đường.
Loại bêtông mới này không những cho phép sử dụng nhựa than đá và các
phế liệu PVC có rất nhiều, mà còn giúp giải quyết nhiều vấn đề; chống ổ gà,
chống hư hỏng mặt đường do dầu hoả, xăng và các nhiên liệu, làm lớp phủ các
công trình nghệ thuật, làm nền nhà công nghiệp v.v...
Ngoài ra còn tiết kiệm được nguyên vật liệu vì loại bê tông mới này
rất rắn chắc nên có thể giảm bề dày của lớp phủ mặt đường.
243. Có than hoạt tính ở dạng sợi không ?
Cho đến nay, than hoạt tính chỉ có ở dạng bột hoặc hạt. Người ta đã
chế tạo được nó ở dạng sợi. Đây là kết quả nghiên cứu của 2 viện nghiên cứu
Nhật Bản, dùng nguyên liệu cơ bản là sợi pôliacrilnitril. Độ bền của nó đối với
không khí lớn hơn than hoạt tính bột và hạt. Sự hấp thụ các dung môi hữu cơ
hoặc các khí độc lớn hơn từ 1,5 - 3 lần.
244. Có điều bí ẩn gì ở hồ Komek ?
Hồ Komek, ở vùng xa mạc phía Tây nước Tuôc -mê-ni (Nga) mang trong
lòng nó một điều bí ẩn. Vì sao nhiệt độ nước hồ gần đáy lên tới 500C,
còn mặt nước chỉ có 90C ?
Trước kia người ta cho rằng, có những mạch nước nóng ngầm. Nhưng
người ta đã phát hiện: nước hồ gồm 2 lớp không trộn lẫn nhau, do khối lượng
riêng khác nhau. Lớp trên mặt là nước mưa còn lớp dưới thì mặn, đáy hồ lại có
bùn đen nên hấp thu nhiều nhiệt lượng của ánh nắng mặt trời hơn lớp nước trên
mặt hồ. Hiện tượng này giúp tạo ra loại bùn hydrô sunfua có thể dùng để chữa
bệnh, khối lượng ước tính lên tới hàng nghìn mét khối.
245. Đá bọt nhân tạo dùng làm gì ?
Nhiều loại đá phún được dùng trong xây dựng, để làm bê tông nhẹ:
tính nhẹ của chúng là do cấu trúc xốp được tạo ra khi núi lửa nổ.
Ở Đức đã hoàn thành phương pháp sản xuất một loại đá bọt nhân tạo,
gọi là zitan, chế biến từ đất sét tạo hạt trong một thiết bị đặc biệt, bắt
chước hoạt động nổ của núi lửa. Zitan rắn chắc và có khả năng đàn hồi, chịu
được tác dụng của hơi nước và nước đá.
246.. Có loại đèn báo hiệu ban đêm nào không tiêu thụ năng lượng bên
ngoài ?
Ở Mỹ vừa chế tạo một loại đèn báo hiệu ban đêm không tiêu thụ năng
lượng bên ngoài. Thân đèn là một ống huỳnh quang bằng thủy tinh borôsilicat,
bên trong nạp khí tritium, khi bức xạ sẽ làm đèn sáng. Ánh sáng loại đèn này có thể chiếu xa đến 180m và
tuổi thọ có thể được hàng chục năm.
247. Xương nhân tạo làm bằng chất gì ?
Người ta thí nghiệm thay một vài xương nhân tạo cho một con chó thí
nghiệm .Xương nhân tạo chế biến trên cơ sở hiđrôxiapatit, ôxit nhôm xốp hoặc
san hô trong trường hợp này là canxi cacbonat) nhưng không một trường hợp nào
bị sai khớp hoặc nhiễm trùng chỗ tiếp xúc. Dần dần xương nhân tạo được bọc sụn
và sau đó chẳng khác gì xương thật.
248. Sợi siêu bền được điều chế từ chất gì ?
Một công ty Nhật Bản đã nghiên cứu phương pháp rẻ tiền để điều chế
cacbua silic thành sợi dùng cho vật liệu nhiều lớp. Sợi này có khả năng làm việc ở nhiệt độ tới 1.2000C.
Nguyên liệu để điều chế cacbuasilic là đimêtilcloxilan, nhiệt phân trong chân
không ở 1.3000C. Nếu tăng
nhiệt độ đến 1.5000C, tính bền của sợi giảm. Giới hạn bền của sợi có
đường kính từ 10 - 20 micrôm là 350kg/cm2 trong khi sợi bằng đồng và
niken có cùng đường kính thì giới hạn bền chỉ là 40 - 60 kg/cm2.
249. Làm pin mặt trời rẻ tiền từ chất gì ?
Hiện nay người ta đã nghiên cứu kỹ thuật sản xuất pin mặt trời trên
cơ sở sunfat đồng và cađimi. Giá của loại pin này chỉ có 1 đôla một mét vuông,
và hiệu suất vào khoảng 7,8%. Pin mặt trời khác có hiệu suất từ 15 - 20%, nhưng
giá ít nhất là 150 đôla một mét vuông.
250. Hàn nhôm như thế nào ?
Những chuyên gia ở trung tâm khoa học Kha-ru-ele (Đức) đã nghiên cứu
thành công một phương pháp đơn giản để hàn nhôm. Trong điều kiện bình thường,
nhôm không hàn được, vì trên bề mặt nhôm lập tức tạo thành màng oxit, và que
hàn không liền được với màng này. Để hàn hai bề mặt nhôm, trên bề mặt của nó
trong chân không, người ta phủ một lớp bột niken mỏng. Không cần làm sạch bề
mặt vì trong chân không sẽ xảy ra tác dụng hoá học giữa nguyên tử niken và màng
mỏng oxit. Sự đốt nóng tự nhiên trong khi hàn không làm giảm độ bền của lớp bọc
và lực kết dính với nền nhôm.
251. Chất gì xua đổi chó và mèo ?
Ở Canađa vừa đưa ra bằng phát minh một chế phẩm mới để xua đuổi chó
và mèo. Trong thành phần chất ấy, ngoài paraphin và dầu khoáng, còn có
mêtilnônixeton (CH3(CH2)8- COCH3 .
Mùi của chất này, rất ít hấp dẫn đối với
khứu giác rất thính của chó và mèo. Rắc ở các hiên, lò sưởi và các đường đi,
loại thuốc này làm cho chó và mèo phải lánh xa.
252. Dùng laze điều chế thuỷ tinh kim loại như thế nào ?
Dưới tác dụng của tia laze CO2rất mạnh, có thể tạo được
một màng mỏng có độ bền vững cao gọi là thuỷ tinh kim loại. Trong khoảng khắc,
tia laze làm chảy một lớp mỏng trên bề mặt kim loại hoặc hợp kim, mà nhiệt độ
lên tới hàng nghìn độ. Khi ngắt tia laze, kim loại nguội rất nhanh trong phần
nghìn của giây. Lúc đó trên bề mặt kim loại hình thành một màng mỏng dạng thuỷ
tinh gọi là thuỷ tinh kim loại. Qua nghiên cứu, màng mỏng có độ cứng và chống
ăn mòn rất cao so với bản thân kim loại hoặc hợp kim thông thường. Người ta đã
thu được thủy tinh kim loại trên nền hợp kim niken và côban.
253. Có phải silic oxit chống
hiện tượng vón cục ?
Trong quá trình sản xuất các loại phân hoá học, tình cờ người ta
thấy rằng silic oxit có tác dụng ngăn cản hiện tượng vón cục của các loại phân
hoá học. Còn trong khi bón các loại thuốc chống sâu bệnh cho cây trồng, các nhà
khoa học thấy rằng silic oxit lại có tác dụng hấp thu chất gây hiện tượng vón
cục.
254. Hợp kim than AT - 3 là
hợp kim gì ?
Ở Nga người ta đã nghiên cứu chế tạo được một loại hợp kim titan
mang nhãn hiệu AT-3, thay thế được cho thép không rỉ. Trong thành phần của nó
có các chất như nhôm, crôm, sắt, và silic, với hàm lượng không quá 2 - 3%. Hợp
kim này có tính chống ăn mòn rất cao. Nó không bị ăn mòn bởi nước biển, peoxit
hyđrô đậm đặc và axit pha loãng, thậm chí còn chịu được các hợp chất nóng của clo, và trong dung dịch axit sunfuric đun nóng tới
2750 C ở áp suất 60 át -môt-phe trong 2000 giờ. Thí nghiệm
với axit nitric cũng thu được kết quả như vậy. Dưới tác dụng của các chất kiềm.
AT-3 không hề bị phá huỷ. Hợp kim AT-3 còn có một loạt ưu điểm nữa là bền, dễ
hàn, và giữ nguyên độc tính dẻo ở nhiệt độ -1950 C.
Qua nhiều thí nghiệm người ta thấy rằng: hợp kim mới này tốt hơn hẳn
thép không gỉ khi dùng trong công nghiệp hoá chất. Cần phải nói thêm là hợp kim
AT-3 có thể sử dụng rất rộng rãi.Từ hợp kim này có thể làm các sản phẩm rèn,
các tấm cán nguội, ống, dây, kim loại dát mỏng tới 0,07mm..
255. Có thể dùng khói nhà máy
nhiệt điện để làm phân bón không ?
Một nhà máy công suất 1500 - 2000 mêga-oát, chạy bằng than mỗi ngày
thải vào không khí 50 tấn đioxit lưu huỳnh (SO2) rất độc. Các nhà
Bác học Ba-lan đã tìm cách trung hoà nó, dựa vào hiện tượng thường xảy ra trong
thiên nhiên là đioxit lưu huỳnh tham gia vào phản ứng với amoniăc trong không
khí.
Theo phương pháp mới này thì amoniăc được cho thêm vào khói sẽ tạo
ra amonisunfat trong không khí. Gió sẽ rải phân bón này trong một vùng rộng
lớn. Phương pháp mới này lần đầu tiên được sử dụng tại nhà máy điện thành phố
Turôvô.
256. Có xích xe đạp bằng chất dẻo không ?
Ở Mỹ vừa đưa ra thị trường một loại xích xe đạp bằng chất dẻo, có
cốt bằng thép. Loại xích này nhẹ hơn xích thép 75%, không cần bôi trơn và không
gây tiếng động. Trong thành phần chất dẻo (pôliuretan), có cho thêm phụ gia
phản xạ, nên ban đêm xích sẽ sáng dưới ánh đèn pha ô-tô, làm cho người đi xe
đạp đêm an toàn hơn.
257. Có thể sát trùng bằng phân bón không ?
Các vi khuẩn, nấm, giun tròn sống trong đất, gây tác hại rất lớn cho
cây trồng trong nông nghiệp. Để tiêu diệt các loại có hại này, người ta xông
khói đất bằng các chất độc hoá học. Khả năng mắc bệnh của các cây thực vật giảm
xuống, nhưng không sát trùng được hoàn toàn.
Gần đây, người ta đã khám phá ra một phương pháp tốt hơn nhiều, bằng
cách sử dụng phân đạm thông thường. Ví dụ: nếu ở trung tâm gây bệnh của khoai
tây trước một số tuần, người ta đưa vào trong đất một lượng urê (1,5kg/m2),
thì trung tâm gây bệnh bị tiêu diệt hoàn toàn.
Viện Bảo vệ thực vật của Nga đã áp dụng thử phương pháp này để bảo
vệ cây bông khỏi các bệnh nguy hiểm nhất - như bệnh héo lá do verticillium.
Những thí nghiệm tưới urê vào đất (3 - 5g/1kg đất) chứng tỏ có thể
hoàn toàn hoặc gần như hoàn toàn ngăn ngừa được bệnh cho cây bông. Kết quả sát
trùng đó tỏ ra có hiệu quả cho cả những năm sau.
258. Có ôtô bọc chất dẻo không ?
Ở những ô tô du lịch, chất
dẻo đã trở thành rất quen thuộc. Gần đây các vật liệu pôlime đã được sử dụng
trong chế tạo thiết bị quân sự. Mỹ thông báo đã chế tạo các loại xe hơi bọc
thép, trong đó các tấm pôlicacbonat được dùng rất rộng rãi.
Vỏ ôtô bọc thép mới đó được chế tạo như sau: vỏ ngoài là loại thép
cácbon thường, bên trong là một lớp poliuretan dày 25mm (cách âm và cách nhiệt)
trong cùng là lexan, các tấm kín chắn
gió thì làm bằng 3 lớp lêxan khác nhau, loại chất dẻo này súng thường bắn không
thủng.
Loại ôtô bọc thép mới này nhẹ hơn xe cũ cùng loại tới hàng tấn, mặt
khác lại rẻ hơn: chỉ giá khoảng 9000 đô la.
259. Nhiên liệu gì có thể lấy từ hồ Ki-vu ?
Hồ Ki-vu nằm ở vùng núi thuộc Trung Phi, có thể trở thành nguồn
nguyên liệu quan trọng để phát triển công nghiệp cho các nước gần đó. Nước hồ
này chứa tới 60 tỷ mét khối mêtan dưới dạng hoà tan, lượng hơi đốt này có khả
năng sinh nhiệt tương đương với 60 triệu tấn dầu lửa. Khí này sinh ra dưới tác
dụng của vi sinh vật, cũng như trong các hồ và các đầm lầy, có rất nhiều chất
hữu cơ phân huỷ trong điều kiệu thiếu dưỡng khí.
Người ta bắt đầu nghiên cứu khai thác khí thiên nhiên nhiên độc đáo
này. Phương pháp tiến hành rất đơn giản : hút nước ở độ sâu 300 m, và cùng với
sự giảm áp suất, độ hoà tan của khí cũng giảm nên khí quá bão hoà được tách ra.
Trong những năm gần đây, đã lấy ra khoảng 20 triệu một mét khối khí
mêtan từ hồ Ki-vu.
260. Có thể hàn graphit không ?
Graphit không những không hàn được mà cũng không chảy lỏng. Một số
nhà nghiên cứu đã đề xuất lót miếng đệm nhôm vào mối hàn graphit, sau đó ép
chặt chi tiết và đốt nóng chỗ nối cho đến nhiệt độ, mà nhôm và cacbon bắt đầu
phản ứng với nhau (khoảng 18000C). Cacbua nhôm sinh ra sẽ nối các
chi tiết, lúc đó lại nâng nhiệt độ lên thêm 5000C. Ở 23000 C
cacbua nhôm bay hơi, còn các chi tiết bằng graphit thì gắn chặt lại. Chu trình
hàn này (18000C - 23000C
- 18000 C) được lắp lại 5 lần. Toàn bộ thời gian hàn khoảng nửa giờ.
Sau đó không còn nhôm trong mối hàn, còn các chi tiết graphít được liên kết rất
bền vững.
261. Thuốc trừ sâu từ biển có ưu điểm gì ?
Nhiều sinh vật sống ở biển đã cho những hoạt chất dùng làm thuốc
chữa bệnh. Một giống giun biển thân đốt, có chứa trong vỏ một độc tố thần kinh
gọi là nereistexin (hải độc tố), là một amin có tác dụng làm tê liệt thần kinh
trung ương của nhiều sâu bọ.
Những người đánh cá Nhật bản từ lâu đã biết rằng nhiều loài khi ăn
phải giống giun biển trên thì chết. Nhưng mãi đến năm 1934 nhà nghiên cứu Nhật
bản Nitta mới tìm ra độc tố trên.
Ngày nay 20% thuốc trừ sâu tiêu thụ ở Nhật là Pađan, có hoạt chất là
một dẫn suất tổng hợp nhân tạo của nereisteixin. Thuốc trừ sâu Padan được bán
ra thị trường nước Nhật từ1967, tiêu diệt được nhiều giống rệp, bọ cánh cứng,
mọt ngũ cốc và mối, kể cả những giống đã trơ với các loại thuốc trừ sâu hữu cơ
chứa phốt pho và clo, nhưng không độc với động vật máu nóng và chóng bị phân
huỷ trong các mô sinh vật và ngoài trời.
262. Lại một hồ kỳ lạ ở đâu ?
Cái hồ kỳ lạ này mà người địa phương gọi là hồ ngọt nằm ở Uran, vùng
Tchêliabinsk. Quả thật nước hồ ấy có vị hơi ngọt. Một đặc điểm nữa: ở đó người
ta có thể giặt quần áo mà không cần xà phòng, cả các vết dầu bẩn cũng sạch
trơn.
Làm sao giải thích được hiện
tượng này ? Các nhà hoá học đã phân tích nước và nhận thấy nó chứa xút (NaOH).
263. Có thể tính tuổi của vũ trụ theo rêni như thế nào ?
Gần đây, 2 nhà bác học Mỹ đề nghị xác định tuổi vũ trụ theo tỷ lệ
các đồng vị của osimi và rêni: Đồng vị phóng xạ trong thiên nhiên của rêni 187
sau khi phóng xạ bêta chuyển thành đồng vị osimi 187 và có chu kỳ bán huỷ là 40
tỷ năm. Các nhà bác học ấy đã xác định tỷ lệ asimi và rêni trong các thiên
thạch và tính ra tuổi của vũ trụ là 18 - 20 tỷ năm.
264. Nước nho và rượu vang diệt siêu vi trùng ?
“Nước nho, rượu vang làm giảm tuổi thọ của siêu vi trùng gây bệnh,
thí dụ siêu vi trùng pôliômêlit”. Những nhà sinh vật học Canada đã nuôi siêu vi
trùng trong các nước uống ấy, có điều chỉnh pH và đã nhận thấy rằng khả năng
gây bệnh của pôliômêlit trong nước nho (ở pH = 7.0 và nhiệt độ 40C)
giảm hàng nghìn lần sau 1 ngày. Rượu vang tác dụng kém hơn nước nho tươi. Người
ta đã giải thích rằng hiệu lực giết siêu vi trùng là của các hợp chất phênôl có
trong nước nho nhiều hơn trong rượu vang.
264. Chất dẻo nào được dùng trong đồng hồ ?
Xưởng sản xuất đồng hồ Êrêvan mỗi năm tiết kiệm được 60 vạn rúp nhờ
thay một số chi tiết truyền thống kim loại trong đồng hồ bằng chất dẻo tự bôi
trơn: các đồng trùng hợp của foocmalđêhit với điôxôlan và triôxanvới điôxôlan.
265. Bộ mì ôxi hoá có ưu điểm gì ?
Ở Riazan, người ta thí nghiệm cho thêm vào bột mì 0,3 - 0,5% bột mì
biến tính bằng cách ôxi hoá với hỗn hợp 3 muối: kali brômat, kali pecmanganat
và kali hipôclorit. Bánh mì sản xuất ra phồng hơn, ngon hơn, để lâu không bị
cứng, mà giá thành không cao hơn bánh mì thông thường.
266. Loại thuốc diệt nấm nào không chứa thuỷ ngân ?
Một công ty Đan mạch và một chi nhánh của công ty khác ở Thuỵ Điển
vừa sản xuất được một loại thuốc diệt nấm mới, đặt tên là panôctin, theo một
quá trình sản xuất gồm 5 giai đoạn. Hoạt chất trong panôctin là 9 azô 1,17-
điaminoheptađêcan axêtat của guaniđin, từ nguyên liệu là axit béo. Các công ty trên
đã xây dựng một nhà máy có công suất 4.000 tấn/năm từ năm 1978.
267. Xăng cải tiến như thế nào ?
Những nhà nghiên cứu ở Viện Hoá hữu cơ thuộc Viện Hàn lâm khoa học
của Nga bảo đảm rằng thêm 10% rượu izô - prôpilic vào xăng sẽ làm cho tính chất
của xăng tốt hơn Hỗn hợp 98% xăng AU- 93 và 10% rượu izô-prôpilic tốt hơn xăng
nguyên chất: ít muội hơn trong buồng đốt, giảm tính độc của khí thải, tỉ lệ
nguyên liệu cháy không hết ít hơn, mà động cơ không bị giảm công suất.
268. Nhựa xốp cácbon được chế tạo như thế nào ?
Nhựa xốp cacbon là một vật liệu rất bền, nhẹ và chịu nhiệt. Phương
pháp chế biến thông thường đi từ nhựa pôliurêtan và phênôlalđêhit, nhưng quá
trình chế biến rất dài và tổn thất nhiều nguyên liệu. Viện nghiên cứu khoa học
của Nga đã nghiên cứu phương pháp chế biến mới, từ pôliacrilônitril. Để tạo
bọt, nhựa pôliacriloonitril được hoà tan trong dung dịch kẽm clorua hay natri
sunfoxianua, rồi khuấy mạnh. Bọt sinh ra trước hết được đun nóng đến 160 - 2300
để ôxi hoá, sau đó cacbon hoá bằng cách nâng dần nhiệt độ đến 600 - 7000 C.
Phương pháp này vừa nhanh và tiết kiệm hơn phương pháp cũ.
269. Keo yếm khí là keo gì?
Cái tên nghe khá kỳ lạ. Nhưng chính loại keo này, ngày nay đang được
công ty Anh - Mỹ "Loctait" sử dung. Ở trạng thái lỏng, khi không có
không khí, nó tồn tại như mônôme, và nếu có không khí, nó trùng hợp ở nhiệt độ
phòng. Chỉ cần bôi một lớp keo này giữa hai vật liệu cần gắn chặt với nhau, ta
sẽ có được một mối nối bền vững không bị gẫy, giống như PVC.
270. Dùng bọt để tinh chế khí thải như thế nào?
Công ty Thụy Điển "Anpha - Lavan" đã nghiên cứu một loại
bọt thích hợp để lọc khí thải ở các nhà máy luyện kim và các nhà máy điện. Khi
những hạt bụi (hoặc tro) tiếp xúc với bọt (rất nhỏ) thì bọt vỡ ra, biến thành
giọt, chất lỏng kéo cả hạt bụi vào thiết bị đặc biệt. Tại đây, cặn sẽ được tách
khỏi chất lỏng. Sau đó chất lỏng này có thể lại được tạo thành bọt trong ống
khói.
271.Dầu hoả chế từ rác như thế nào?
Khi nấu "quá chín" rác thành phố, thiết bị thí nghiệm của
công ty Hitachi (Nhật Bản) sinh ra hơi quá nhiệt, thích hợp để sản xuất điện
năng, nhiên liệu lỏng giống như dầu hoả và một hỗn hợp khí đốt có nhiệt lượng
cao. Công nghệ xử lý rác hữu cơ bao gồm một quá trình nghiền rác, làm ẩm và xử
lý nhiệt. Phế liệu cuối cùng của quá trình này là phân bón loại tốt, có chứa
các nguyên tố vi lượng.
272. Dùng axit xitric để khử các hợp chất của lưu huỳnh như thế nào?
Khói ở các nhà máy điện có chứa oxit lưu huỳnh, làm chết cây cối và
có hại đối với sức khoẻ con người. Ở Mỹ gần đây đã thử nghiệm phương pháp khử
các hợp chất lưu huỳnh này, bằng cách tạo ra trong ống khói một cơn mưa đặc
biệt: tưới xuống đều đặn một dung dịch muối natri xitrat và axit xitric. Các
hoạt chất này hấp thụ lưu huỳnh và biến nó thành kết tủa dạng bụi, là nguyên
liệu hoá chất rất có giá trị.
273. Than có ích cho việc trồng rau không?
Than nâu chất lượng thấp (linhit) trộn với các hợp chất nitơ, mặt
cưa hoặc các phế liệu hữu cơ khác, là một loại phân phức hợp tuyệt vời để trồng
rau. Các nhà nông học Rumani đã bón phân này cho đất cát. Theo quan sát của họ,
một số cây không những tăng sản lượng mà còn tăng cả tỷ lệ vitamin, đường và
prôtêin.
274. Pôlime thay sắt tây làm vỏ đồ hộp có ưu điểm đỉ?
Ở Áo, Mỹ, Nhật người ta đã thử đóng hộp đậu côve, thịt lợn, cà chua
trong hộp bằng loại pôlime mới. Ưu điểm của loại bao bì mới này rất rõ rệt (bền
nhẹ, hợp vệ sinh và không bị ăn mòn). Người ta dự đoán rằng sau 5 - 8 năm nữa,
chất dẻo sẽ hoàn toàn thay thế thuỷ tinh và sắt tây trong công nghiệp đồ hộp
trên toàn thế giới. Những sản phẩm đựng trong hộp pôlime sẽ tốt hơn và bảo quản
được lâu hơn.
275. Gỗ lai chất dẻo có ưu điểm gì?
Công ty Anh "Sertex" bắt đầu bán ra thị trường vật liệu
xây dựng nhiệt dẻo "Sanwood", là hỗn hợp PVC với bột gỗ. Từ vật liệu
đó, có thể chế tạo các tấm ván, các đường ống, các cấu kiện rỗng vì bột gỗ làm
tăng rất nhiều đồ cứng của PVC. Vật liệu này chịu mài mòn, chống uốn gấp tốt,
không bị trương, không thay đổi hình dạng trong không khí ẩm, đánh bóng dễ
dàng.
"Sanwood" có thể gia công trên các máy, đóng được đinh,
dán được và sơn được như gỗ thường. Về giá cả, vật liệu mới này có thể cạnh
tranh được cả với gỗ.
276. Than bùn có những ứng dụng gì?
Viện than bùn Nga đã chế biến được than hoạt tính chất lượng cao từ
than bùn và đưa vào sản xuất trên quy mô công nghiệp. Viện cũng đã nghiên cứu
công nghệ sản xuất men ăn cho gia súc từ than bùn. Đó là những chất protein cực
kỳ cần thiết cho sự sống.
Từ than bùn, người ta còn tách ra axit ôxalic để sản xuất chất tẩy
rửa đặc biệt, để tẩy cặn cho nồi hơi.
Viện còn nghiên cứu cả công nghệ sản xuất sáp từ than bùn. Sáp không
chỉ làm nến mà dùng trong 50 ngành công nghiệp khác nhau.
277. Sơi "Lola" và "Oxalon" là những sợi gì?
Đó là tên của các loại sợi tổng hợp do các nhà hoá học Nga chế tạo
ra để dùng vào những mục đích đặc biệt.
Sợi "Lola" có tính bền nhiệt, không bắt lửa ngay cả trong
ngọn lửa đèn xì propan, nóng 12000C. Người ta dự kiến dùng loại sợi
này để sản xuất quần áo chống cháy, vải trang trí không cháy, và vải lọc các
khí cháy.
"Uglen" trong môi trường khí trơ chịu được nhiệt độ 3.0000C,
nhưng khi có oxi thì chỉ chịu được có 2500C. "Uglen" dẫn
điện và có thể được dùng để sản xuất giấy dẫn điện, chất dẻo, cao su và chất
thay thế da có tính chống tĩnh điện.
"Oxalon" cũng làm một loại sợi chống cháy, nhưng lại làm
bằng nguyên liệu gỗ. Vải dệt từ "oxala" là vải lọc khí cháy tuyệt vời
trong các xí nghiệp luyện kim màu và luyện kim đen, trong công nghiệp chế tạo
muội than, công nghiệp xi măng và mỏ. Và cho tới nay chưa có vật liệu nào tốt
hơn "oxalon" để sản xuất sợi corđ bền nhiệt cho săm lốp.
278. Chiếc áo "bọt" bảo vệ cây như thế nào?
Để bảo vệ cây trồng khỏi bị băng giá, người ta bắt đầu sử dụng các
loại bọt làm từ polime hoà tan trong nước; giêlatin, pôli-vinilalcol và một số
chất hữu cơ khác. Để bọt khỏi bị phá huỷ, người ta còn thêm vào các chất phụ
gia hoạt động bề mặt, thường dưới dạng muối amoni. Thế là đã thu được một tấm
"áo bằng bọt", không gây bỏng hoá học cho cây trồng và không bị hư
hỏng ở nhiệt độ - 30C.
Thí nghiệm đã chứng tỏ những chiếc áo bọt mới này chẳng những giữ được
nhiệt độ cho cây mà còn bảo vệ cây trồng chống được nhiều loại bệnh tật khác.
279. Hoá học giúp đỡ xây dựng như thế nào?
Trong khi xây dựng các toà nhà mới ở thủ đô Viên, các nhà kiến trúc
người Áo đã gặp các lớp nền đất ẩm không ổn định. Họ bèn cầu cứu đến hoá học
nhờ phương pháp điện phân. Họ khoan những lỗ có chiều sâu 15 mét, đổ xuống đó
dung dịch muối và axit chứa flo, silic và bo, rồi cắm vào lỗ khoan những điện
cực nối với lưới điện. Các iôn trong dung dịch chuyển từ anôt sang catot, tham
gia phản ứng với các thành phần vô cơ trong đất ẩm. Kết quả là tạo ra những
chất khó tan, làm đất chặt lại. Và nhờ phương pháp điện phân đó, người ta đã xây dựng ở đây những toà nhà
chọc trời.
280. Cả phân xưởng bằng thuỷ tinh ở đâu?
Một phân xưởng toàn bằng thuỷ tinh đã xuất hiện tại xí nghiệp
"Verra" sản xuất kali của Đức, phân xưởng nhìn bề ngoài chẳng có gì
đặc biệt. Nhưng ở đây, đại đa số vật liệu từ ống dẫn, đoạn nối, bộ phận phân
phối đến thiết bị phản ứng đều được chế tạo bằng thuỷ tinh. Trong nhiều quá trình
hoá học, thuỷ tinh đã tỏ ra tốt hơn kim loại, gốm, sứ, chất dẻo. Độ tin cậy
trong vận hành của thuỷ tinh cao hơn, giá thành lại rẻ hơn. Các nhà hoá học từ
lâu đã đánh giá cao thuỷ tinh về những tính ưu việt của nó, nhưng đây quả là
lần đầu tiên họ mới mạnh dạn sử dụng làm các thiết bị trong một phân xưởng. Thí
nghiệm này đã chứng tỏ phương pháp dùng thuỷ tinh làm vật liệu chế tạo thiết bị
có nhiều triển vọng.
281. Có thể dán trái tim không?
Trong thời gian gần đây, người ta đã dùng keo để dán những vết
thương thay cho kim chỉ giải phẫu, vừa nhanh vết thương lại vừa mau lành và
không để lại sẹo. Nhưng keo có một nhược điểm cơ bản: chúng là những chất
"lạ" đối với cơ thể con người, nên nhiều khi gây những hậu quả không
lường trước được.
Các nhà khoa học Úc đã thành công trong việc chế tạo một loại keo
dán để dán các mô sống bằng chính các mô sống. Nguyên liệu là một loại abumim
của máu (fibrogen), hoà trong dung dịch của một thành phần khác của máu là
trombin và một số chất tạm thời giữ bí mật, gọi là "Factor - 3": Loại
keo mới này được dùng trong phẫu thuật, tỏ ra tốt hơn hẳn các loại cũ. Nó thuận
tiện đặc biệt trong phẫu thuật các cơ quan nội tạng: tim, thận, phổi,... Các cơ
quan đó đã "tiếp nhận" keo một cách tự nhiên và sau khi lành vết
thương, keo hoà tan trong cơ thể.
282. Dùng keo dán ống dẫn như thế nào?
Hiện nay, khi các đoạn ống dẫn bị hư hỏng, chủ yếu là thủng do gỉ,
người ta phải thay thế bằng đoạn ống mới. Các chuyên gia Đức đã áp dụng thành
công một phương pháp mới để sửa chữa đường ống dẫn dầu cũng như các đường ống
khác trong các nhà máy hoá chất. Dưới áp suất, người ta phun lên chỗ hỏng huyền
phù của keo dán trên cơ sở cao su. Sau khi khô hình thành một lớp cứng, gắn rất
chặt và rất bền, bịt kín chỗ hư hởng. Phương pháp mới đã được dùng để sửa chữa
450km đường ống. Hiệu quả của việc sử dụng phương pháp mới này là đã tiết kiệm
được hàng triệu Mác (tiền của Đức).
283. Nhiệt và ánh sáng lấy từ rác như thế nào?
Trong nhiều thành phố ở Mỹ, rác được dùng như nguồn bổ sung năng
lượng. Chẳng hạn, tại thành phố Aymơ, từ 2 năm nay, người ta đã xây dựng một
thiết bị công nghiệp xử lý rác thành phố thành nhiên liệu cho các nhà máy điện.
Đầu tiên, rác được nghiền nhỏ, rồi dùng nam châm điện để tách hết các kim loại
chứa sắt... và cho đi qua bộ phận loại bỏ các tạp chất không cháy được. Lúc
này, trong rác chỉ còn giấy, chất dẻo và các chất hữu cơ khác, theo đường ống
đi vào buồng đốt của máy phát điện. Đây là nhà máy đầu tiên dùng rác làm nguồn
cung cấp nhiệt để sưởi ấm và ánh sáng trong thành phố.
284. Có thể lấy uran từ nước biển không?
Trong mấy năm qua, Nhật Bản và Đức đã công bố kết quả những thí
nghiệm lấy uran từ nước biển.
Ở Đức người ta trồng trong nước biển những loại rong đặc biệt, có
khả năng tích tụ uran trong thân. Còn ở Nhật lại chế tạo các máy lọc độc đáo,
có thể giữ lại những phần uran nhỏ nhất tan trong nước biển. Nhật đã có cả kế
hoạch dài hạn hướng vào đề tài này. Theo kế hoạch, từ năm 1990, các thiết bị sẽ
thu hồi hàng năm tới 3400 tấn uran từ nước biển. Cần nhớ lại rằng, theo tính
toán, nước biển trên toàn trái đất chứa tới 4 tỷ tấn uran.
285. Loại đèn pin nào có tuổi thọ cao?
Những chiếc đèn pin bình thường nếu bật sáng, chỉ sau vài giờ ánh
sáng sẽ yếu dần rồi tắt hẳn. Nhưng chiếc đèn pin vừa được các nhà các nhà hoá
học chế tạo mới đây thì khác hẳn, có thể bật sáng liên tục tới 10 năm liền mà
độ sáng chỉ giảm một nửa. Không dùng pin điện, cơ cấu của nó khác hẳn. Nó có
mặt kính bằng thuỷ tinh borô-silicat, phủ một lớp chất phát quang. Trong hộp
đèn chứa đầy triti, phát ra liên tục dòng điện tử, đập vào mặt kính làm đèn
phát ra ánh sáng. Độ sáng của nó lớn hơn của đèn pin thường.
286. Giấy sát trùng dùng làm gì?
Một nhà máy giấy ở Nga đã đưa vào sản xuất một loại giấy đặc biệt:
là giấy sát trùng. Người ta dùng phương pháp hoá học "gắn" những chất
sát trùng hoặc kháng sinh lên xenlulôzơ trước khi xeo vào hoàn tất giấy. Giấy
sát trùng sẽ có ứng dụng rất rộng rãi: dùng để đắp lên các viết thương, mụn
nhọt hoặc vết mổ, làm vật liệu lọc không khí cho các xí nghiệp dược phẩm hoặc
phòng mổ, và nhiều mục đích khác nữa.
287. Có bao nhiêu loại vi khuẩn ăn chất dẻo?
Các nhà khoa học Nga đã phát hiện được khoảng 160 chủng loại nấm, vi
khuẩn, có thể phá hoại các chất pôlime. Các vi khuẩn ở khắp mọi nơi trong không
khí, trong đất và trong nước. Các chất pôlime có chứa các chất độn hữu cơ lại
càng dễ bị phá. Ngược lại các chất dẻo được sản xuất từ nhựa êpôxi ít bị đe doạ
hơn. Các thực nghiệm đã cho thấy chỉ sau vài tháng, một số sản phẩm chất dẻo bị
mất độ bóng đẹp và mất dần các tính chất vật lý của nó, do tác dụng phá huỷ của
nấm. Các nhà khoa học thuộc Viện Vi sinh vật Mascơva đã nghiên cứu và đề nghị
với các ngành công nghiệp, hãy thay thế các thành phần "ăn được" của
các loại chất dẻo bằng những loại bền hơn, chống được nấm phá huỷ.
288. Dây điện thoại bằng thuỷ tinh đã được dùng ở đâu?
Các đây vài năm, một đường dây điện thoại đầu tiên có công suất cao
đã được giới thiệu ở Harlow (thuộc nước Anh) trong đó các tín hiệu nói được
truyền đi nhờ dao động của tia sáng lade thông qua những sợi tóc thuỷ tinh rất manh.
Do đó người ta đã xây dựng một đường dây thử nghiệm dài 9km bằng sợi dẫn ánh
sáng được bọc trong dây cáp có đường kính là 7mm. Theo công bố của các nhà chế
tạo thì các nguồn lade có thời gian làm việc lâu hơn 20.000 giờ, ở mỗi khoảng
cách xa 3km người ta lắp 2 máy khuếch đại nhằm tương cường và làm sạch các tín
hiệu.
289. Ô tô chạy bằng nitơ được phát minh ở đâu?
Ở Anh, một số kiểu động cơ mới đã được đăng ký sáng chế, động cơ này
chạy nhờ năng lượng được giải phóng ra khi nitơ lỏng bay hơi. Theo công bố của
nhà sáng chế thì lượng nitơ tiêu tốn cho 100km là 5,5lít. Mặc dù giá bán của
xăng và nitơ bằng nhau, điểm ưu việt đặc biệt của động cơ là không làm ô nhiễm
môi trường xung quanh vì các chất độc không bị đọng lại trong ống xả.
290. Chất dẻo termoplen dùng để làm chất gì ?
Các chuyên gia nhà máy Plastin (Nga) vừa đưa ra một mặt hàng mới:
Chất dẻo Termoplen, có độ co rất cao khi chịu tác dụng của một nhiệt độ không
đáng kể, chẳng hạn nhiệt độ của bàn bay. Tính chất này rất quý khi dùng làm bao
gói, nhất là để gói những đồ vật có hình dạng phức tạp, thực phẩm, các thiết bị
điện tử, chai lọ, dụng cụ thí nghiệm. Termoplen sẽ bọc rất khít các đồ vật đó.
Về bản chất, termoplen là pôliêtilen. Để có độ co rất cao, người ta
chỉ việc chiếu vào màng một chùm điện tử nhanh. Termoplen được cuốn thành những
cuộn lớn hoặc làm thành tấm có kích thước khác nhau.
291. Bao gói cho thịt sống làm bằng chất gì?
Ở Đức người ta đã làm ra một loại bao gói mới cho thịt sống, có thể
rán và nấu được. Đó là những tấm màng trong suốt bằng pôlieste và pôliprôpilen,
phủ bằng một lớp pôlivinilclorua. Nó chịu được nhiệt độ 1200C trong
một thời gian dài, cho nên bao gói có thể làm khử trùng cho sản phẩm và bảo vệ
trong 3 tháng mà không làm giảm chất lượng của thịt. Loại bao gói này đang được
dùng rộng rãi để bảo vệ nhiều sản phẩm lương thực dễ bị hư hỏng khác nữa.
292. Thực vật sản xuất hiđrô từ nước như thế nào?
Một phòng nghiên cứu nông nghiệp ở Mỹ đã phát hiện ra một hệ thống
rất đơn giản, nhờ đó có thể sản xuất hiđrô từ nước trong những điều kiện
"nhẹ nhàng". Hệ thống đó là thực vật cộng sinh của hai loại: rong
xanh Ana-bena azolla và dương xỉ nước Azolla mà rong sống trên lá của nó. Rong
hấp thụ nitơ từ không khí và hyđrô từ nước. Trên lá dương xỉ, N2 và
H2 sẽ kết hợp với nhau thành amôniăc. Nếu như thêm vào dung dịch một
lượng nhỏ phân đạm, thì H2 thu được từ rong sẽ không dùng đến để làm
thành "thức ăn" nữa và như thế có thể lấy riêng H2 ra. Còn
một khả năng khác nữa: Giữ rong trong bầu khí quyển N2 dư, thì H2
cũng không bị tiêu thụ để chuyển hoá thành amôniăc.
293. Tách uran từ nước thải như thế nào?
Ai cũng biết nguyên tố mang số 92 này trong bảng tuần hoàn ngày một
hiếm. Ấn Độ và Nhật Bản thu hồi uran từ nước biển. Anh và Canađa khai thác uran
từ lớp quặng thải sau khi làm giàu than. Và gần đây Tiệp Khắc cũng áp dụng
phương pháp của mình sau khi nhận thấy nước thải của nhiều nhà máy hoá chất
chứa những vi lượng uran. Các nhà khoa học đã nhờ đến vi sinh vật. Trong quá
trình sống, một vài loại tích luỹ uran trong các tế bào của minh. Vi khuẩn
thích hợp nhất để tách uran chính là những vi khuẩn dùng trong những nhà máy
sản xuất penixilin. Sau 10 giờ sống trong nước thải, sinh khối của chúng tăng
tới 2,5 gam trong một lít nước. Lọc, xử lý với xođa, người ta thu được một
nguồn nguyên liệu để thu hồi uran, đồng thời nước thải lại sạch hơn.
294. Dùng chất phát sáng tiết kiện được năng lượng như thế nào?
Công ty Gêneral Electric (Mỹ) đã sản xuất một loại đèn huỳnh quang
mới công suất 35W chứa một chất phát quang mới, toả ra một lượng ánh sáng tương
đương với loại đèn 40W hiện nay, do đó tiết kiệm được khoảng 14% điện năng.
Chất phát quang gồm 2 thành phần: Thành phần thứ nhất phát ra ánh
sáng màu vàng, còn thành phần thứ hai toả một phần nhỏ trong phần quang phổ màu
xanh, nhưng ánh sáng tổng hợp của loại đèn mới này cũng giống như của các loại
đèn bình thường.
295. Chất dẻo Flex dùng làm gì?
Chất dẻo Flex được coi là loại vật liệu cách điện vạn năng mới, đã
được sản xuất tại Buôc-gas (Bungari). Nó
là một chất lỏng quánh được pha chế thành nhiều màu khác nhau, chịu được nhiệt
độ từ - 350 đến + 900C, chịu va đập, nén và kéo. Người ta
dùng súng phun để phủ các bề mặt kim loại. Chất lỏng cách điện này có thể dùng
trong xây dựng dân dụng và công nghiệp.
296. Sợi khó cháy có tính chất gì?
Dưới sự hướng dẫn của giáo sư tiến sĩ B. Laszkiewics, trường Đại học
Bách khoa Lodz (Ba Lan) đã chế tạo được một hoá chất khó cháy làm phụ gia cho
sợi viscô và chất dẻo. Các loại sợi có chất phụ gia này chỉ cháy khi tiếp xúc
trực tiếp với ngọn lửa. Nếu không có ngọn lửa trực tiếp thì sẽ tắt ngay, không
cháy âm ỉ như các loại sợi khác.
297. Chất lỏng làm khô gỗ là chất gì?
Viện Kỹ thuật Lâm nghiệp Mascơva đã tìm ra một phương pháp mới để
làm khô gỗ bằng dung dịch natri nitrat NaNO3 đun nóng. Với phương
pháp này thì gỗ không những khô nhanh hơn so với các phương pháp sấy khô bằng
đối lưu thông thường mà còn ít bị co ngót và nứt nẻ.
298. Dầu mỏ làm từ săm lốp cũ như thế nào?
Lốp xe ô tô được làm từ dầu mỏ... Điều ấy ai cũng biết. Nhưng gần
đây, tại Anh đã xây dựng một xưởng thí nghiệm để làm điều ngược lại: Từ các
loại săm lốp ô tô thải ra, hàng năm với số lượng hàng triệu tấn, người ta đã
tiến hành nhiệt phân trong các thiết bị phản ứng đặc biệt và thu được dầu mỏ có
chất lượng cao, trước hết dùng làm nhiên liệu và sau khi chưng phân đoạn, có
thể chuyển hoá thành nhiều sản phẩm hoá chất có giá trị. Ngoài ra, sản phẩm của
xưởng nhiệt phân lốp ô tô cũ này còn có muội than, kim loại để nấu chảy lại và
một số hoá chất vô cơ nữa.
299. Tìm vàng theo mùi như thế nào?
Tìm vàng theo mùi là điều người ta đã biết từ lâu, vì rằng, quặng
vàng cũng như đồng luôn luôn có "người bạn đường" là thuỷ ngân bốc
hơi, xuyên qua mặt đất và đi vào khí quyển. Người ta đã chế tạo một máy phân
tích khí đặc biệt để tìm ra mỏ vàng và đồng theo màu sắc và mùi của không khí.
Nhưng tất cả các dụng cụ này đều không nhậy và kém chính xác. Gần đây, Viện Địa
hoá học và Tinh thể học các nguyên tố hiếm thuộc Nga đã chế tạo máy phân tích
khí hấp thụ nguyên tử xách tay để "ngửi" lớp không khí thoát ra từ lỗ
đào sâu dưới đất. Hơi thuỷ ngân sẽ được hấp thụ trên một chất đặc biệt, đem đi
định lượng và từ đó tìm ra một số mỏ vàng. Dụng cụ này cực kỳ chính xác và nhậy: nó có thể phát hiện một phần trăm
triệu miligam thuỷ nhân trong một lít không khí.
300. Pôlyme liên minh với kaolanh như thế nào?
PVC thuộc loại chất dẻo hiện nay bị thải ra nhiều nhất trong phế
liệu sinh hoạt. Đốt thì không có lợi vì sinh ra các chất khí rất độc. Các kỹ sư
Nhật Bản đã tìm ra một cách sử dụng các chất dẻo cũ này. Từ phế liệu PVC, người
ta đã chế tạo các tấm lát sàn trong các nhà máy hoá chất: bền, không sợ axit và
kiềm, chịu lửa... Người ta đã xây dựng một quy trình kỹ thuật để nghiền PVC
thải, trộn với kaolanh và ép ở áp suất rất cao trong những khuôn kim loại nóng.
301. Chữa bệnh thối cà chua như thế nào?
Khi bảo quản cà chua, trên vỏ thường xuất hiện các vết đen loang
rộng dần và làm cà chua bị thối. Nguyên nhân là do một loại vi khuẩn phát triển
và phá hoại cà chua. Một Viện nghiên cứu ở Mỹ đã tìm ra phương pháp khắc phục
tình trạng này một cách hết sức đơn giản và có hiệu quả. Trước khi chuyên chở
hoặc đưa cà chua mới thu hoạch vào kho, chỉ cần nhúng cà chua mới thu hoạch vào
nước, trong đó có thêm vào một ít nước Javen (natrihipocloit). Nhờ vậy đã chữa
được bệnh thối cà chua do vi khuẩn với hiệu quả
tới 92%.
302. Làm phân bón hữu cơ từ rơm rạ như thế nào?
Trước đây, người ta thấy rằng nếu để rơm rạ trên mặt ruộng trước khi
trở thành phân bón, rơm rạ bị phân huỷ rất chậm, làm đất bị "bạc màu"
đi. Vì rằng, các vi khuẩn sống trong đất cần một lượng lớn nitơ để đồng hoá
licnhin của rơm rạ. Ở Mỹ và Úc, người ta đã thực hiện thành công những thí
nghiệm tận dụng rơm nhờ nấm vesenka. Loại nấm này dùng nitơ của không khí để
phân huỷ licnhin. Kết quả là từ 1 tấn rơm khô, người ta thu được 1 tấn nấm ăn
rất giàu protein và 220 kg phân bón hữu cơ. Có thể thêm vào rơm rạ một ít giấy
cũ.
303. Licnhome là gì?
Đó là tên một sản phẩm mới của các nhà hoá học Ba Lan, do ghép 2 từ
"Lignus" là gỗ và pôlime. Để sản xuất Licnhome, người ta tẩm vào bên
trong gỗ, giữa những thớ sợi một mônôme rồi cho trùng hợp. Licnhome có độ cứng
cao hơn gỗ 4,8 lần, bền uốn hơn 50 - 150%, bền nên theo chiều ngang hơn 6 lần
và theo chiều dọc hơn 2 lần. Ngoài ra, vật liệu này còn không bị cháy, chống
được những loại vi khuẩn phá hoại gỗ. Có thể khoan, bào, đục... giống như gia
công những đồ vật thường làm bằng gỗ.
304. Mây bằng chất dẻo làm mưa như thế nào?
Các chuyên gia đang nghiên cứu thực hiện một đề án đặc biệt nhằm đảm
bảo nước cho vùng sa mạc khô căn ở Cô-oet. Họ chế tạo những đám mây bằng chất
dẻo, bề ngoài trông như một tấm khăn trải giường khổng lồ, bên trong chứa một
lượng lớn chất khí. Khi mặt trời làm nóng chất khí, nó nở ra và làm cho đám mây
bay lên. Nhờ dây cáp, đám mây sẽ được hướng vào phương đã xác định trước. Không
khí từ cát bị nung nóng của sa mạc bốc lên, va chạm với bề mặt tương đối lạnh
của đám mây chất dẻo. Lượng ẩm chứa trong không khí này ngưng tụ lại, rơi xuống
đất thành mưa.
305. Người ta đã biết bao nhiêu hợp chất hoá học?
Bằng bộ nhớ của máy tính, theo dõi trên các tạp chí khoa học, tính
đến tháng 11 - 1977, người ta đã ghi nhận được 4.039.907 hợp chất hoá học khác
nhau. Trung bình mỗi tuần, khoảng 6000 hợp chất mới xuất hiện, 96% là các chất
hữu cơ. Trung bình các hợp chất này chứa 43 nguyên tử, nhưng 22 nguyên tử đã là
hiđrô. Có khoảng 120.000 pôlime và 258.000 hợp chất phối trí. Hiện chưa xác
định được cấu tạo của trên một nửa số hợp chất. Ước chừng 3.000 hợp chất có ứng
dụng trong thực tế ở những mức độ khác nhau.
306. Chất dẻo niplon có ưu điểm gì?
Viện nghiên cứu chất dẻo thuộc Liên hợp sản xuất
"Plastmass" ở Nga nghiên cứu quy trình công nghệ sản xuất một loại
chất dẻo mới với tên thương mại là "Niplon". Các sản phẩm trên cơ sở
chất dẻo này không hề bị giảm chất lượng dưới tác dụng lâu dài của môi trường
ăn mòn mạnh, nhiệt độ cao và các bức xạ. Dùng những công thức pha chế khác
nhau, Niplon đã được gia công thành nhiều sản phẩm rất bền với tác dụng của
dung môi hữu cơ, axit vô cơ và kiềm. Do vậy, chúng sẽ được dùng rộng rãi trong
công nghiệp hoá chất.
307. Bảo quản trứng gà bằng parafin như thế nào?
Trứng gà là một trong những loại thực phẩm khó bảo quản lâu dài, vì
mất giá trị dinh dưỡng nhanh chóng vì bị thối. Các chuyên gia Nga đã tìm ra một
phương pháp mới để giữ nguyên phẩm chất của trứng trong thời gian từ 10 đến 12
tháng. Trước hết, nhúng trứng vào một bể chứa parafin. Sau đó xếp trứng vào
buồng chứa ôzôn trong một thời gian nhất định. Ozôn sẽ ôxy hoá lớp parafin trên
vỏ trứng, biến nó thành một màng bảo vệ có tính sát khuẩn rất cao.
308. Dùng cây cối để phát hiện ô nhiễm môi trường như thế nào?
Để xác định mức độ ô nhiễm môi trường, cả định tính và định lượng,
phải dùng những dụng cụ phức tạp. Nhưng để nhận biết các chất độc trong không
khí, người ta có thể dựa vào phản ứng của các loại cây nhậy cảm với môi trường.
Dựa trên nhận xét này, các nhà khoa học Hà Lan đã đề nghị trồng các loại cây
quanh nhà máy hoá chất và chỉ dẫn cách dựa vào chúng để phát hiện mức độ ô
nhiễm không khí: cỏ linh lăng và cây thuốc lá dùng để phát hiện ozôn, rau cần
tây và cây cà chua nhậy cảm với ôxit nitơ, khoai tây nhận biết được êtilen.
309. Tấm lá chắn tia bức xạ làm bằng chất dẻo nào?
Tại Nhật Bản người ta đã sản xuất những tấm bảo vệ khỏi tia bức xạ
cho những người làm việc trực tiếp với tia Rơnghen và các bức xạ khác bằng vật
liệu mới: chất dẻo. Nhựa pôliacrilic pha 30% chì được dùng vào việc này. Tấm
bảo vệ có ưu điểm rất lớn là trong suốt, nhưng cũng mang theo những ưu và nhược
điểm cố hữu của chất dẻo như độ dai va đập cao, đơn giản khi gia công, nhưng
lại dễ bắt cháy và bị biến dạng do nhiệt độ. Điều quan trọng là sau khi chiếu
lâu dài bức xạ gamma (với cường độ 105 Rad), độ trong suốt của tấm
chắn bảo vệ bằng chất dẻo không bị thay đổi. Một tấm nhựa acrilic dày 33,4 mm
có tính năng bảo vệ ngang với tấm chì dày 1,6 mm.
310. Tinh bột kết bạn với chất dẻo có ưu điểm gì?
Một công trình nghiên cứu có hệ thống gần đây đã xác nhận: có thể
ghép lên đại phân tử tinh bột những mônôme khác nhau và thu được chất dẻo có
tính chất tốt. Chẳng hạn ghép lên tinh bộ stiren và mêtilmêtacrilat, thu được
côpôlime giòn và cứng, nhưng chỉ thêm một lượng butilacrilat thì pôlime lại rất
đàn hồi, có tính bền cơ học cao, giống như da. Một điều đáng lưu ý là các chất
dẻo trên cơ sở tinh bột lại có thể phân huỷ vi sinh vật, giảm được khó khăn trong
chống ô nhiễm môi trường do chất thải rắn.
311. Chất dẻo dùng làm vỏ tàu có ưu điểm gì?
Trong nhiều năm, người ta tìm kiếm những vật liệu tốt nhất để chế
tạo vỏ tàu ngầm, với nhiều yêu cầu rất khe khắt, và chỉ mãi gần đây mới đi đến
kết luận: vật liệu tốt nhất là chất dẻo. Công ty Anh "Vikers" đã sản
xuất hàng loạt tàu ngầm có vỏ bằng chất dẻo. Những chiếc tàu mới vừa nhẹ, bền,
vừa hoàn toàn không cần bảo vệ chống hiện tượng ăn mòn của nước biển.
312. Ai dùng nhôm thay thế bạc để tráng gương?
Các nhà hoá học Rumani đã đưa vào sản xuất phương pháp tráng gương
mới, trong đó thay bạc bằng nhôm. Những tấm gương tráng nhôm rỏ ra có chất
lượng cao hơn gương tráng bạc, nhưng ưu điểm cơ bản là nhôm rẻ hơn bạc rất
nhiều. Nếu như trước đây, 1m2 kính cần 5,7 g bạc thì nay chỉ cần 3 g
nhôm. Quá trình tráng nhôm lên gương thực hiện trong chân không.
Do có nhiều ưu điẻm, nên chỉ một năm sau khi được phát minh, phương
pháp mới này đã được áp dụng cho 60% số gương sản xuất ở Rumani.
313. Vải thô pôlyêtylen dùng làm gì?
Ở Nga người ta đưa ra một quy trình công nghệ để sản xuất một vật
liệu đặc biệt: vải thô từ pôlyêtylen. Đó là một loại "vải không dệt",
có khả năng lọc rất tốt và có thể dùng để bọc các đường ống chìm dưới đất hoặc
thường xuyên tiếp xúc với chất hữu cơ hay vô cơ. Các tấm lọc bằng pôlyêtylen
tốt hơn và rẻ hơn các tấm lọc bằng vải thuỷ tinh, thường được sử dụng hiện nay,
nên đã thay thế nó trong nhiều ngành kỹ thuật.
314. Lưu huỳnh siêu dẫn được chế tạo thế nào?
Viện Vật lý áp suất cao (thuộc Nga) phát hiện ra một dạng thù hình
mới của lưu huỳnh có tính năng đặc biệt: tính siêu dẫn. Để thu được dạng thù
hình này, người ta phải nén lưu huỳnh dưới một áp suất khá cao, tương đương với
sức nén khoảng 10 tấn trên 1 mẫu lưu huỳnh có đường kính 0,2 mm. Dưới áp suất lớn
ấy, điện trở của mẫu đã giảm đi 10 vạn lần (có thí nghiệm thấy giảm 10 triệu
lần). Ở 5.70K, điện trở của dạng thù hình này là 4.10-3
ôm.
315. Có bao nhiêu tro trong than?
Hàm lượng tro trong các loại than thường dao động từ 1 đến 45%. Than
càng ít tro, nhiệt trị càng cao và càng có giá trị. Phương pháp xác định tro
thông thường là đốt rồi cân, tuy đơn giản nhưng lại mất thời gian. Các nhà khoa
học Ba Lan đã đề xuất một phương pháp mới: phương pháp đo bức xạ. Các chất vô
cơ bao giờ cũng hấp thụ tia bức xạ mạnh hơn than. Chỉ cần đo sự thay đổi cường
độ bức xạ, nhờ một bảng đã tính toán sẵn, có thể trả lời ngay có bao nhiêu tro
trong than.
316. Hocmon chống đau là chất gì?
Các nhà khoa học Mỹ vừa phát hiện trong máu người có một loại hocmôn
chống đau và đặt tên hợp chất mới tìm ra này là anôđin. Tiêm thử anôđin này vào
vỏ não, người ta đã chứng minh nó có tác dụng như mocphin và tác dụng giảm đau
trong nhiều giờ. Anôđin chính là loại hocmon có ảnh hưởng đến giấc ngủ cũng như
sự tỉnh giấc của chúng ta.
317. Đổ bêtông dùng nước biển có được không?
Khi đổ bêtông, cần nước. Tiếp xúc với nước, xi măng dính kết nhanh
chóng tạo ra những khối cộng kết, gắn cát và đá dăm lại với nhau. Nước không
sạch sẽ rất phiền phức: tạo thành lỗ rỗng, làm xấu tính chất cơ học của bê
tông. Nhưng gần đây, các nhà khoa học lại thành công trong việc đổ bêtông bằng
nước biển với độ mặn là 42g muối trong 1 lít nước. Muốn dùng nước mặn, người ta
phải thêm một hỗn hợp phụ gia, bao gồm 18 thành phần và dùng nhiệt độ cao hơn.
Dù sao thành công này đã giải quyết được khó khăn cho việc xây dựng của nhiều
nước và nhiều vùng trên thế giới.
318.Nhiên liệu hạt làm từ phế liệu gì?
Người ta mới tìm ra một phương pháp để tận dụng phế liệu của các nhà
máy xẻ gỗ như vỏ cây, mạt cưa, vỏ bào. Cũng giống như rơm, vỏ lạc, bã mía,
những phế liệu này được chuyển thành dạng nhiên liệu ép thành hạt. Khi cháy,
lượng tro còn lại rất nhỏ (khoảng 2%) trong khi đốt than đá, lượng tro lên tới
13%. Tại Mỹ, nhiên liệu này còn rẻ hơn khí thiên nhiên.
319. Bột đá chống ăn mòn là chất gì?
Để chống ăn mòn cho các đường ống dẫn khí và dẫn dầu, người ta dùng
màng pôlime. Thế nhưng lớp "áo" này khá đắt tiền. Các nhà khoa học
Nga đã đưa ra một loại vật liệu mới: bột đá nhão, dùng thay cho pôlime. Bột đã
nhão trong đơn pha chế gồm một số thành phần: thuỷ tinh lỏng, một số chất phụ
gia và bột đá. Sau khi trộn, chúng giống như vữa. Vật liệu chống ăn mòn này
được "sơn" lên bề mặt ống nhờ phương pháp dao động điện và trát lên
các chỗ nối ống. Bột đá nhão rẻ, bảo vệ tốt và chịu được lạnh.
320. Ống thông gió bằng chất dẻo gì?
Các ống thông gió lắp đặt trong các hầm mỏ cho tới nay đều làm bằng
kim loại. Việc lắp chúng trong các kênh đào thẳng đứng và tại các cửa khá khó
khăn. Ngoài ra chúng bị gỉ và phải thường xuyên thay thế. Một nhà máy ở
Buđapest (Hungari) bắt đầu sản xuất các ống này từ vải pôliamit, tẩm một thành
phần không cháy là silicôn, đồng thời bảo đảm chống tính điện. Các ống có kích
thước dưới 60 cm được gia cố bằng lõi thép. Tính chất của các ống mềm thông gió
loại này tốt hơn hẳn ống kim loại: lắp ráp nhanh chóng, độ bền cao hơn vài lần
và rẻ hơn.
321. Prôtêin làm từ cỏ như thế nào?
Các kỹ sư Hungari đã thử nghiệm thành công việc sản xuất prôtêin nguyên chất từ cỏ linh lăng, lá ngô
và một vài loại cỏ khác. Việc tìm ra nguồn đạm mới này dùng làm thức ăn cho con
người được đánh gia ngang với việc tìm ra điện nguyên tử trong ngành năng
lượng. Từ nay, tại Hung, một hecta trồng cỏ có thể thu được 3 tấn prôtêin có
chất lượng cao, nghĩa là nhiều hơn 6 lần lượng chất đạm thu được khi trồng lúa
mạch.
Trước hết, người ta nén lá cỏ thành viên, ép lấy nước rồi làm đông
tụ sẽ thu được prôtêin nguyên chất, chỉ việc đem sấy khô. Về giá trị dinh
dướng, nó cao hơn đậu nành và chứa rất nhiều vitamin. Hiện nay, ngoài việc dùng
nhiều làm thức ăn cho gia súc người ta
còn dùng làm kẹo bánh. Một nhà máy sản xuất prôtêin loại này công suất 50 T/giờ
đã được xây dựng xong.
322. Chất gì thay thế DDT?
Các nhà hoá học Hungari đã đưa vào sản xuất một loại thuốc trừ sâu
mới tuyệt đối không độc đối với người và động vật máu nóng, không có mùi, không
gây ô nhiễm môi trường và bảo vệ cây trồng rất tốt. Hoạt chất là pirêtrin tổng
hợp, giống như hoạt chất có trong cây cúc trừ sâu. Loại thuốc này đã được
thưởng huy chương vàng tại Triển lãm hoá học thế giới tổ chức tại Tiệp Khắc.
323. Khí hàn mới là khí gì?
Các nhà hoá học Ba Lan đề nghị thay thế axêtilen trong việc cắt và
hàn kim loại bằng một hỗn hợp khí gồm prôpan, prôpilen và một vài loại khí thải
khác trong quá trình chế biến dầu mỏ. Khi cháy, hỗn hợp khí này toả ra một
nhiệt lượng lớn hơn của axêtilen nhiều. Điểm đặc biệt là trong một bình tiêu
chuẩn, có thể chứa một lượng hỗn hợp khí lớn hơn axêtilen tới 4 lần, do đó việc
chuyên chở các bình này sẽ thuận tiện hơn.
324. Sôđa hoạt tính dùng làm gì
Viện Hoá lý và điện hoá Praha (Tiệp Khắc) đăng ký một bằng phát minh
ra khắp thế giới và rất được hoan nghênh: phát minh ra sôđa hoạt tính, mang tên
AKSO (aktivna soda). Ai cũng biết rằng khí thải từ động cơ ô-tô chứa nhiều chất
độc, chủ yếu là khí sunfurơ. Akso hấp thụ cực kỳ nhanh chóng và hoàn toàn chất
này. So với những máy lọc khí tốt nhất, nó khử SO2 nhanh hơn tới 10
lần ở nhiệt độ 120 - 1600C, tức là nhiệt độ bình thường của khí
thải. Ngoài ra, Akso còn có công dụng đặc biệt trong ngành giấy và xenlulôzơ.
324. Từ một trăm lít xăng làm ra được những thứ gì?
Một trăm lít xăng nếu dùng làm nhiên liệu cho ôtô, thì trung bình có
thể chạy được một nghìn cây số. Nhưng nếu dùng để làm nguyên liệu cho ngành
tổng hợp hữu cơ thì sẽ biến thành 21 chiếc áo sơmi nam hoặc 160m ống dẫn nước,
hoặc nếu quay trở lại với ôtô, thì làm được một bộ xăm lốp ôtô.
325. Chất gì dùng thay xăng và axeton để tẩy mỡ?
Các nhà nghiên cứu Viện Hoá vô cơ ở Nga nghiên cứu sản xuất một loại
chất mới, mang tên "Termos" để tẩy mỡ cho các chi tiết trước khi sơn,
tráng men và mạ điện, thay cho xăng và axêton thường dùng trước đây, có mùi và
dễ cháy. "Termos" là dung dịch một chất nhũ hoá trong dầu điêzen, pha
trộn với dung dịch một chất hoạt động bề mặt ít bọt trong nước và chất ức chế.
"Termos" đã cải tiến được điều kiện lao động trong các phân xưởng sản
xuất.
326. Làm mảng bảo vệ bê tông như thế nào ?
Ở Nga người ta đã nghiên cứu được một phương pháp bảo vệ các kết cấu
bê tông cốt thép không bị hư hỏng do ăn mòn; dán lên bề mặt cần được bảo vệ một
màng mỏng pôlyêtylen đã xử lý bằng diện tích, nhờ một lớp keo êpôxi - cao su
đàn hồi.
Lớp bảo vệ này có độ bền hoá học rất cao đối với các tác nhân ăn mòn
mạnh như axit, kiềm… Khi dùng lớp bảo vệ này, người ta thấy hiệu quả kinh tế
rất cao.
327. Phản ứng âm thanh xảy ra trong dung dịch gì?
Người ta đã biết phản ứng nổ từ lâu, trong đó sản phẩm của phản ứng
là chất khí. Nhưng 3 nhà hoá học Hà Lan phát hiện ra một loại phản ứng mới:
phản ứng âm thanh xảy ra trong dung dịch, đồng thời phát ra những âm thanh rất
lớn. Chẳng hạn phản ứng giữa dung dịch clorua kẽm và dung dịch pipazin. Khi các
tinh thể dipipazin kẽm hình thành, kèm theo những siêu âm và cả những âm thanh
nghe được.
Người ta chưa biết được những nguyên nhân của việc xuất hiện âm
thanh nhưng chắc chắn nó liên quan đến sự chuyển nhanh chóng những tinh thể nhỏ
thành tinh thể lớn.
328. Tận dụng bã thải của nước thải như thế nào?
Các kỹ sư Bungari thuộc nhà máy thuỷ phân Razlog đã tìm ra phương
pháp sản xuất khối cô đặc giàu prôtêin - vitamin từ bùn lắng bề xử lý nước thải
sau khi làm sạch bằng phương pháp sinh hoá. Khối cô đặc này là thành phần có
giá trị đối với nông nghiệp vì chứa 15 amino axit quan trọng và các vitamin.
Thêm vào khẩu phần ăn của gia súc, tốc độ tăng trọng còn cao hơn so với các sản
phẩm giàu vitamin - prôtêin mà công nghiệp đang sản xuất.
Từ 200kg bùn, người ta thu hồi được 1kg khối cô đặc giàu prôtêin -
vitamin này.
329. Acquy chi cađimi có ưu điểm gì?
Viện Acquy và Pin ở Poznan (Balan) đưa ra sản xuất một loại ăcquy
mới với điện cực là chi - cadimi. Ngoài đặc tính là dung lượng rất cao, loại
ăcquy này rất bền với va chạm và làm việc được trong một khoảng nhiệt độ rất
rộng từ - 400C đến + 500C. Dung lượng của chúng lên tới
10 nghìn ampe/giờ.
Trên thế giới, ngoài Balan, chỉ có một vài nước sản xuất ăcquy loại
này là Mỹ, Đức và Pháp.
330. Tìm vi khuẩn ăn chất dẻo để làm gì?
Sau khi phát hiện được các
loại vi khuẩn sống bằng các sản phẩm dầu mỡ, người ta đã tiến hành tìm kiếm các
loại vi khuẩn ăn chất dẻo và đã đạt được kết quả bước đầu. Hiện nay, loại vi
khuẩn quý giá này đang được thử nghiệm để thủ tiêu các loại nhựa tổng hợp và
chất dẻo có trong nguồn nước thải.
331. Tạo màng chống lắng cặn bằng chất gì?
Ở Úc, người ta đã bắt đầu áp dụng một phương pháp mới để chống hiện
tượng tạo cặn trên thành nồi hơi, thiết bị cô dặc và chưng cất. Bản chất của
phương pháp rất đơn giản: chỉ việc thêm vào nước một lượng rất nhỏ axit
pôlyacrylic (khoảng 5 phần triệu trong nước). Hợp chất này tạo ra trên thành
thiết bị một lớp màng pôlime rất mỏng. Cặn bám vào màng ít hơn nhiều so với bám
trên kim loại. Và khi cặn bám đến một độ dày nào đó, màng sẽ tự bong ra, rơi
xuống đáy và lấy ra dễ dàng.
332. Chống nọc rắn bằng chất gì?
Người ta phát hiện ra rằng chất ức chế cho phản ứng gốc tự do tỏ ra
có tác dụng khử độc được nọc rắn (trong đó, nhiều chất phá huỷ quá trình sinh
tổng hợp albumin và axit nuclêic). Chẳng hạn, một chất ức chế có hiệu quả nhất
là prôpylgalat có tác dụng khử được nọc độc của rắn lục, rắn hổ mang và một số
loài rắn khác. Nếu tiêm dung dịch 0,75% chất này vào bắp thịt của chuột thì sau từ 1 đến 6 phút kể từ khi bị rắn cắn,
tất cả số chuột đều được cứu thoát chết, nhưng nếu sau 15 phút trở lên thì tất
cả đều chết.
333. Chất kích thích sinh trưởng thực
vật được chế từ nguyên liệu gì?
Từ lá dừa và mỡ động vật, người ta đã điều chế một chất kích thích
sinh trưởng thực vật mới. Chất này khi xử lý trên thực vật ở đầu giai đoạn phát
triển, sẽ tác dụng chọn lọc trên tế bào, tạo thành những mô mới và không làm
ảnh hưởng tới những bộ phận khác của cây. Chất kích thích mới này không độc,
không gây ra những hiện tượng phụ không mong muốn và có thể xử lý trên một diện
tích rộng lớn bằng cách phun thông thường.
334. Thêm một chất ngọt nhân tạo nữa là chất gì?
Một nhóm các nhà hoá học Hungari mới tổng hợp được một chất hữu cơ
mới, ngọt hơn đường saccarôzơ hàng nghìn lần. Đường "siêu ngọt" này
được gọi tên là "Hinôin - 401".
Hiện nay, chưa đủ cơ sở đánh giá vai trò của nó trong công nghiệp thực phẩm
tương lai, nhưng qua những thử nghiệm đầu tiên vè độc tính đối với cơ thể,
người ta cho rằng "Hinôin" có thể sẽ thay thế sacarin.
335. Vải đặc biệt để lót đường làm bằng chất gì?
Tiệp khắc vừa đưa vào sản xuất một loại vải hoàn toàn mới, thuộc
loại vải không dệt. Nguyên liệu của vải này là sợi pôlyprôpilen và pôlyeste,
không bị mục bởi nấm mốc và có độ bền hoá học và cơ học rất cao. Công dụng của
vải cũng rất "độc đáo": để phủ lên mặt đường xá. Vải có tác dụng
không để các lớp đất khác trộn lẫn với nhau, có thể dùng như một tấm lọc loại
trừ hỗn hợp cát, đá dăm trong xây dựng đường xá. Một số đường ôtô của Tiệp khắc
đã được lót những tấm vải này.
336. Dùng khí cháy dập tắt lửa là khí gì?
Theo phương pháp cổ điển, để dập tắt các đám cháy trong mỏ than,
người ta phải cho khí trơ vào những chỗ nứt nẻ. Nhưng khi đám cháy lớn, lượng
khí trơ cần dùng rất nhiều; nếu không đủ thì tai nạn này càng thêm phức tạp.
Phương pháp mới thay thế khí trơ bằng một khí đốt phổ biến là mêtan. Khí này có
sẵn hơn nhiều và muốn tránh nguy hiểm chỉ cần duy trì nghiêm ngặt một tỷ lệ
nhất định với không khí. Bơm mêtan tràn đầy vào chỗ nứt lửa sẽ tắt.
337. Chất gì trong lửa không cháy, trong nước không chìm?
Hai kỹ sư Tiệp khắc đươc giải thưởng quốc gia của Tiệp khắc năm 1978
đã đưa ra sản xuất một loại chất dẻo mới, lấy tên là Resitek. Khi đưa tấm vật
liệu này cùng với một tấm sắt vào ngọn lửa đèn khí thì kim loại chảy, Resitek
vẫn không hề thay đổi tính chất. Nhờ tính cách nhiệt, vật liệu này đã được làm
một số chi tiết trong lò cao. Do khối lượng riêng nhỏ, Resi-stek nổi trên mặt
nước. Các nhà khoa học cho rằng Resistek sẽ là một trong các vật liệu của kỹ
thuật phức tạp trong tương lai.
338. Vitamin nào có tác dụng chống ăn mòn kim loại?
Axit ascorbic với cái tên phổ biến là vitamin C vừa được phát hiện
là có khả năng chống ăn mòn kim loại. Nếu phủ lên bề mặt kim loại sạch một lớp
axit ascorbic cùng với bột môlipđen, thì lập tức nó liên kết với kim loại thành
một lớp bảo vệ bền. Một số công ty lớn đã bắt đầu dùng axit ascorbic để
"vitamin hoá" các kim loại nhằm mục đích bảo vệ chúng, thay thế cho
axit crômic đòi hỏi phải xử lý phức tạp hơn.
339. Gạch có xenlulozơ được chế tạo như thế nào ?
Người ta biết rằng nếu chế tạo được gạch xốp thì rất có lợi: gạch đỡ
bị vỡ và lại cách nhiệt tốt, một tính năng rất quý khi dùng để xây tường. Nhưng
tạo ra những lỗ xốp trong gạch không đơn giản. Ở Đức, người ta đã tìm được cách
chế tạo gạch xốp này. Lấy phế liệu của nhà máy giấy, gồm xenlulôzơ và các chất
hữu cơ khác thu hồi từ nước thải, thêm vào đất sét trước khi nung. Thế là người
ta thu được gạch có độ xốp rất cao mà tính cơ học không hề giảm sút. Ngoài ra,
giá thành của gạch còn hạ xuống.
340. Dùng dầu thông chạy ô tô có được không ?
Một nhóm các nhà nghiên cứu ở Henxinki (Phần Lan) đã công bố một
thành công mới: dùng hỗn hợp xăng và dầu thông tinh khiết với tỷ lệ cao hơn
xăng để chạy ô tô. Tiêu thụ hỗn hợp nhiên liệu này trên cùng quãng đường thấp
hơn tiêu thụ xăng nhiều. Tại Phần Lan, một nước có những cánh rừng thông rộng
lớn, các xí nghiệp gia công gỗ hàng năm có thể thu hồi được 40 nghìn tấn dầu
thông giá rẻ, từ các phế liệu gỗ. Hiện nay, đã có kế hoạch tăng cường thu hồi
dầu thông để không những tiết kiệm xăng cho ô tô mà còn dùng để chạy động cơ
cho vận tải đường sắt.
341. Amiăng tổng hợp dùng làm gì ?
Trữ lượng amiăng hầu như đã cạn, trong khi đó yêu cầu vật liệu này
để làm chất bảo ôn của công nghiệp lại tăng lên, Các nhà khoa học Mỹ đã tìm ra
một quy trình mới để tạo ra sợi từ ôxit nhôm, silic, crôm và zirconi. Vải dệt
từ sợi gồm các loại ôxyt này rất bền
không những ở nhiệt độ cao mà còn bền với axit và kiềm nữa. người ta đã dùng
chúng để bọc lò cao và các ống dẫn hơi nước. Cũng có thể may thành quần áo cho
"lính" cứu hoả, tốt hơn quần áo trước đây dệt từ sợi amiăng.
342. Nhiên liệu dạng sợi được sản xuất như thế nào ?
Phòng tiêu chuẩn quốc gia Mỹ đã quyết định cho phép sử dụng rộng rãi
một loại nhiên liệu mới do các nhà khoa học bang Oregon chế tạo, Về nhiệt
lượng, nhiên liệu mới ngang với than đá nhưng khi cháy không làm thoát ra khí
độc là ôxyt của lưu huỳnh và nitơ. Nguyên liệu chính để sản xuất ra loại chất
đốt mới này là các vật liệu dạng sợi: vỏ cây, rơm rạ, than bùn loại xấu, bã
mía, vỏ lạc, lõi ngô, mùn cưa và nhiều phế liệu khác. Tất cả được nghiền nhỏ,
sấy khô, trộn lẫn với một loại dầu và chất kết dính, sau đó đem ép thành hạt,
có đường kính 6,6mm, dài 20mm. Chất đốt mới rẻ chỉ bằng nửa khí thiên nhiên.
343. Dùng pôlime trong khoan thăm dò như thế nào ?
Trước đây, người ta thường dùng dung dịch đất sét trong công tác
khoan thăm dò dầu khí. Hiệu quả của nó đã được thử thách trong thực tế lâu dài.
Nhưng các chuyên gia Bungari (tại Học viện hoá kỹ thuật Burgas) đã đề xuất một
phương pháp mới; thay dung dịch đất sét
bằng một loại polime hoà tan trong nước. Khi thử nghiệm, các nhà địa chất đã
nhận thấy dung dịch polime có những tính chất tốt hơn hẳn: độ đàn hồi lớn hơn,
giảm được sự dao động của mũi khoan, cho phép tăng nhanh tốc độ khoan. Nhờ vậy
đã tăng được năng suất lao động và tuổi thọ của thiết bị khoan.
344. Phân tích bất cứ nguyên tố nào trong 110 nguyên tố như thế nào?
Làm thế nào phân tích được thành phần nguyên tố chứa trong hạt bụi
mà mắt thường không thấy? Máy phân tích mang tên "Lamma - 500" của
công ty thiết bị Đức có thể làm được việc này. Máy có kích thước và trọng lượng
bằng một chiếc xe du lịch, bao gồm kính hiển vi quang học và laze, bởm siêu
chân không, máy khuyếch đại quang điện tử, bộ phận làm lạnh... dùng xung lượng
laze làm bốc hơi và ion hoá mẫu cần nghiên cứu. Sau đó, tiến hành phân tích đám
mây ion bằng khối điện tử và quang phổ ký. Nó có thể phân tích bất kỳ nguyên tố
nào trong bảng tuần hoàn và chỉ 3 giây sau là đã có thể trả lời trên máy tính
điện tử.
345. Sứ có trí nhớ như thế nào?
Từ lâu, người ta đã nói đến một vài kim loại (như niken, titan) có
thể "nhớ" lại hình dạng ban đầu của mình nhiều lần thay đổi hình
dạng. Ngày nay, người ta đã phát hiện ra ngay cả sứ cũng có trí nhớ như vậy.
Các nhà khoa học ở trường Đại học Bristol (Anh) đã bất ngờ tìm ra mọt loại sứ
khi đun nóng thì biến dạng, nhưng để nguội, lại trở về hình dạng ban đầu. Quá
trình hồi phục lại hình dạng cũ xẩy ra tương đối chậm. Người ta đang tập trung
tìm kiếm khả năng sử dụng hiện tượng mới phát hiện ra này.
346. Oxalon và Uglen là loại sợi gì?
Đây là tên hai loại sợi tổng hợp được sản xuất để dùng vào những mục
đích đặc biệt. Sợi OXALON dùng để dệt thành vải lọc trong ngành luyện kim và
chế biến muội than. Nó cũng được dùng làm vải mành trong chế tạo lốp xe hoạt
động trong điều kiện nhiệt độ cao. UGLEN giữ được độ bền tới 30000C
trong khí trơ và 2500C trong môi trường ôxy. Vì có tính dẫn điện rất
tốt nên nó được gia công cùng với chất dẻo, sơn, chống hiện tượng tích điện.
347. Hàm răng bằng hyđrôn có ưu điểm gì?
Trong những năm 60, các nhà bác học Tiệp Khắc đã phát minh ra một
loại pôlyme đặc biệt, gọi là hyđrôn, dùng làm lăng kính dẻo áp sát vào nhãn
cầu, thay thế kính thông thường cho những người cận thị và viễn thị. Mới đây,
các nhà bác học Mỹ dùng loại pôlyme không độc hại này để hàn răng rất nhanh.
Hyđrôn hoàn toàn không kích thích các mô xương và lợi. Do dãn nở khi đóng rắn,
nó sẽ trám kín được cả những lỗ nhỏ nhất trong kẽ răng. Nhờ nhựa này, có thể
hàn răng trong vòng một phút.
348. Aspirin cải tiến là chất gì?
Ở Anh, người ta vừa đưa ra sản xuất một chất thay thế mới cho
aspirin, một loại thuốc thông dụng nhất hiện nay. Chất này có tác dụng giảm đau
nhiều hơn aspirin và không gây những hiện tượng phụ không mong muốn của aspirin
thông thường. Tên thương mại của thứ thuốc đó là dôlôbit. Hợp chất này có bản
chất hoá học giống như aspirin (axit axêtylsalixilic) chỉ khác ở chỗ trong phân tử, gốc axêtyl được
thay thế bằng nhóm đifluophênyl. Danh pháp đầy đủ của Dôlôbit là 2,4 -
Đifluophênyl - salixilic axit. Loại aspirin cải tiến này rất được hoan nghênh
và bắt đầu được sử dụng rộng rãi.
349. Làm thế nào để màng không bị dính?
Màng pôlyêtylen khi bảo quản thường bị dính với nhau, nhiều khi chặt
đến nỗi không thể bóc rời ra. Các nhà khoa học Pháp đã tìm được cách khắc phục
hiện tượng này. Khi gia công, họ thêm vào thành phần pha chế một côpôlyme khối
hoặc côpôlyme nhánh của êtylen và styrol, mêtylstyrôl hoặc clostyrôl. Hàm lượng
chất thêm vào không quá 5%. Độ trong suốt của màng không bị xấu đi.
350. Vải chống axit được dệt
từ sợi gì?
Nhà máy dệt liên hợp ở Nga đã sản xuất một loại vải để may quần áo
bảo hộ lao động cho công nhân ngành hoá chất. Trong một thời gian dài, nó không
để cho axit sunfuric và clohyđric đậm đặc, kiềm 10%, amôniăc 25%, clorua vôi
10% thấm qua. Sau khi giặt sạch trong pecloêtylen, tính chất bảo vệ của vải
không thay đổi. Axit sunfuric 93% không thấm ướt lên bề mặt của vải. Một trong
các thành phần chính của vải là sợi pôlyprôpylen, và sau khi dệt, tẩm thêm một
lớp hợp chất hữu cơ chứa flo.
351. Hyđrô có độ tinh khiết cao được sản xuất như thế nào?
Nhà máy hoá dầu Linđen (Đức) đã đưa vào hoạt động một thiết bị mới
có công suất cao để sản xuất hyđrô có độ tinh khiết 99,999%. Nguyên liệu để sản xuất là sản phẩm
reforming hơi, chứa 70 - 75% H2, còn lại là CO, CO2 và CH4.
Việc hấp phụ được tiến hành qua nhiều tháp hấp phụ chứa zêôlit và than hoạt
tính ở áp suất 20 - 25 atmôphe. Sau khi tinh chế, hyđrô chứa dưới 10-3%
CO và hầu như không còn vết CO2. Chất hấp phụ được tái sinh hoàn
toàn.
352. Chất gì có trong hạt bông?
Từ một tấn hạt bông, có thể chiết ra 60 kg đạm dùng làm thực phẩm,
4kg gôsipol, trên 12kg phitin, 3kg đường cũng như một lượng đáng kể dung môi,
rượu kỹ thuật, linhin. Trong hạt còn có một số chất dùng làm dược phẩm là
tôkôphêrol, stêrin.
353. Giấy tổng hợp có ưu điểm gì?
Các nhà máy và Viện nghiên cứu giấy ở Nga đã bắt đầu sản xuất giấy
tổng hợp từ chất dẻo. So với các giấy tổng hợp thông thường, giấy này bền cơ
học hơn, đàn hồi hơn, chịu được nước và nhiệt độ khá cao, không bị nấm và vi khuẩn phá hoại. Trong
bề ngoài, nó giống như giấy can, nhưng có thể viết bằng tất cả các loại bút. Do
giá thành còn cao, nên mới chỉ được dùng trong một vài lĩnh vực như in bản đồ,
bản vẽ và các sơ đồ.
355. Các chất chống kích nổ mới là chất gì?
Thông thường, người ta vẫn pha têtraêtyl chì vào xăng để chống hiện
tượng nổ sớm, nhưng chất này rất độc và gây ô nhiễm môi trường. Việc tìm kiếm
các chất mới có tính năng tương tự được tiến hành ở nhiều nước. Hàng loạt hợp
chất cơ kim đã được tìm ra và tỏ ra có nhiều triển vọng, như xyclôpentađienitricacbônyl măngan, tributyl thiếc,
trimêtyl chì, pentacacboonyl mangan. Các chất chống kích nổ tốt nhất là
các hợp chất của mangan trong đó đồng thời chứa một nguyên tử silic và chì.
356. Chất siêu dẻo dùng làm gì?
Viện pôlyme mang tên Cargin (Nga) vừa tìm ra một chất siêu dẻo
(superplastifiant) cho bê tông. Chỉ cần thêm một lượng rất nhỏ (1 - 2%) chất
siêu dẻo này (tính theo lượng xi măng) đã có thể làm cho độ bền cơ học của sản
phẩm tăng lên 20 - 40%. Bề mặt bêtông lại nhẵn hơn và dễ trang trí hơn. Hiệu
quả kinh tế rất lớn: thêm chất siêu dẻo làm cho mỗi mét khối bêtông tiết kiệm
được 50kg ximăng mà không bị giảm độ bền. Chất siêu dẻo này không chứa iôn clo
gây ăn mòn bêtông và được sản xuất từ phế liệu của nhà máy chế tạo chất dẻo
acrylic.
357. Van an toàn bằng chất dẻo có ưu điểm gì?
Một kỹ sư Nhật vừa chế tạo thành công van an toàn kiểu mới cho các
ống dẫn. Chi tiết cơ bản của van này là một vòng chất dẻo. Ở nhiệt độ thường,
vòng không hề ảnh hưởng đến dòng chảy của chất lỏng hoặc chất khí, nhưng nếu có
sự cố là cháy hoặc nổ, nhiệt độ tăng lên, vòng sẽ bị chảy ra, tạo thành bọt bịt
kín ngay đường ống. Chỉ cần thay đổi cơ cấu, có thể dùng van vào mục đích ngược
lại: tự động mở một ống dẫn đang bị đóng khi gặp sự cố.
358. Chất xúc tác crắckinh mới là chất gì?
Viện công nghiệp chế biến dầu khí Mascơva nghiên cứu thành công một
chất xúc tác crăcking mới cho các phân
đoạn nặng và nhẹ của dầu mỏ. Chất xúc tác này cho hiệu suất olêfin và xăng có
chỉ số ôctan cao hơn hẳn các chất xúc tác thường. Thành phần chính của nó là
muối silic và zircôn trên chất mang là zêôlit. Chất xúc tác này được sản xuất
dưới dạng hình cầu, có độ bền nhiệt cao và rất dễ dàng tái sinh.
359. Có phải thuốc trư sâu lấy từ lá cà chua?
Thuốc trừ sâu thiên nhiên quen thuộc nhất là piretrum, chiết từ cây
cúc trừ sâu, các nhà hoá học Mỹ tìm ra một loại thuốc trừ sâu thiên nhiên mới,
gọi là 2 - triđêcalon, lấy từ lá của một loại cà chua dại. Trong cà chua thường
trồng cũng có, nhưng hàm lượng nhỏ hơn 10 lần. Người ta cho rằng nếu ghép cà
chua thường trồng với cà chua dại thì sẽ có nguyên liệu để điều chế một loại
thuốc trừ sâu thiên nhiên có hiệu lực.
360. Khử trùng bằng mat-tit như thế nào?
Viện Hoá lý thuộc Viện Hàn lâm khoa học Biêlôrut đã sản xuất thử một
loại mát - tít gắn sàn nhà, gọi là "Spungi". Sản phẩm này không những
có tính chất kết dính rất tốt mà còn có một tác dụng phụ nữa là khử trùng cho
sàn và bầu không khí trong phòng. Trong thành phần của Spungi có một chất sát
trùng không độc đối với người và gia súc.
361. Lấy stronti từ apatit như thế nào?
Nhu cầu về stronti rất lớn, nên người ta phải đi tìm những nguồn
cung cấp mới. Một trong những nguồn mới được tận dụng là quặng apatit, chứa
khoảng 2,5% nguyên tố này. Một quy trình công nghệ mới được áp dụng: dùng axit
chuyển hoá quặng để điều chế H3PO4 sản xuất phân lân,
stronti sunfat sẽ kết tủa. Nhưng nếu dùng HNO3 để phân huỷ quặng,
stronti natrat hoà tan và được tách ra bằng cách chuyển hoá thành cacbônat. Từ
1 tấn apatit có thể lấy được 20kg SrCO3.
362. Rượu dùng chạy động cơ như thế nào?
Ba Lan là một trong những nước đầu tiên ở châu Âu đã thêm rượu do
chưng khô gỗ vào nhiên liệu để tiết kiệm xăng. Tại xí nghiệp liên hiệp, hoá dầu
Plock, đã sản xuất nhiên liệu hỗn hợp chứa 20% metanol. Nhiên liệu này không
làm giảm công suất của động cơ mà lại xả ít khí độc hơn.
363. Phân bón làm từ giấy như thế nào?
Ở Thuỵ Điển, trong trồng rau, người ta sử dụng phổ biến một loại
giấy, gọi là Agroprox, tẩm bitum, sáp, chất đạm và thuốc diệt nấm để phủ những
luống rau. Agroprox chẳng những giữ cho cây khỏi bị mất nhiệt mà còn trừ các
bệnh nấm cho rau. Đến vụ trồng trọt tiếp theo, người ta cày lẫn Agroprox với
đất, và nó vẫn phát huy tác dụng phân huỷ thành phân bón và cải tạo đất, giữ
cho đất khỏi bị khô hạn và chống xói mòn.
364. Bí mật nào ở phụ gia khi sản xuất hợp kim đồng chì?
Hợp kim đồng chì làm việc trong điều kiện có tải được đến 6000C.
Nhưng trong kỹ thuật đòi hỏi những vật liệu vừa dẫn nhiệt tốt nhưng như đồng,
vừa chịu tải và làm việc ở trên dưới 10000C. Các nhà khoa học Mỹ mới
tìm ra được một hợp kim đồng thoả mãn các yêu cầu ấy. Bí mật của kỹ thuật là ở
lượng ôxyt nhôm, beri và ziriconi thêm vào.
365. Dùng nước biển làm chất điện ly trong acqui như thế nào?
Đức đã công bố một bằng phát minh mới: ăcquy dùng nước biển làm chất
điện ly. Dung lượng của nó còn lớn hơn ăcquy chì. Một điện cực là lõi nhôm, còn
điện cực thứ hai là một khối xốp bằng một hợp chất của nhôm. Acquy đơn giản,
tiết kiệm, nhưng có một nhược điểm: ngừng làm việc khi bị dao động. Loại ăcquy
này bắt đầu được dùng cho tàu biển.
366. Men thuỷ tinh màu cho kim loại có ưu điểm gì?
Viện Hoá học vô cơ ở Nga đã nghiên cứu thành công một loại men thuỷ
tinh để bảo vệ kim loại, dùng làm các cấu kiện xây dựng, đồ dùng gia đình, đồ
trang sức và bất kỳ sản phẩm nào bằng kim loại. Men thuỷ tinh này không những
chống ăn mòn rất tốt mà còn có màu sắc đẹp, bền và óng ánh, tiết kiệm được năng
lượng và không bị nứt vỡ.
367. Đối thủ của amiăng là chất gì?
Người ta cho rằng loại sợi tổng hợp Armid - T được nghiên cứu tại
Nga quả là đối thủ của amiăng. Nó rất thuật tiện để may quần áo cho lính cứu
hỏa, thợ hàn, làm vật liệu bảo ôn cho các ống dẫn và vải lọc khí nóng và chất
lỏng ăn mòn. Đặc tính quan trọng của loại sợi này là chịu được lâu dài nhiệt độ
cao (3000C) và không bị biến dạng. Nó còn được dùng làm chất độn cho
chất dẻo có công dụng đặc biệt trong kỹ thuật điện tử.
368. Làm kim loại có cấu tạo giống thuỷ tinh như thế nào?
Nếu làm lạnh kim loại từ hàng nghìn độ xuống nhiệt độ thường trong
khoảng một phần của giây thì nó sẽ có cấu tạo giống như thuỷ tinh. Người ta đã
thực hiện được trên những sợi dây bằng sắt có pha bo, phôtpho và crôm. Đặc điểm
của dây này là không có cấu tạo hạt, do đó có độ bền chống ăn mòn rất cao.
Trong tương lai, những sợi dây này có thể thay thế được thép không gỉ trong
những thiết bị làm việc thường xuyên ở 3000C.
369. Keo dạng tấm opoxy dùng làm gì?
Keo giêlatin cổ điển dùng để dán đồ gỗ dưới dạng tấm không phải là
chuyện lạ, nhưng keo êpôxy dưới dạng tấm thì chỉ được sản xuất gần dây, và được
dùng trong công nghiệp máy bay. Tấm keo êpoxy được đặt giữa 2 chi tiết cần gắn
với nhau, sau đó đưa vào nồi hấp ở nhiệt độ 1200C. Keo sẽ rắn lại và
nối rất chắc các chi tiết đó. Người ta đã kết luận máy bay dán bằng keo thay
cho hàn và tán đinh sẽ nhẹ hơn 15% và rẻ hơn 20% so với máy bay trước đây.
370. Thuốc trừ sâu đặc hiệu cho cam quýt là chất gì?
Phôtphamit là loại thuốc trừ sâu đặc hiệu nhất đối với các loại sâu
cam, chanh, quýt, bưởi. Thiếu chất này, sản lượng hàng năm các loại quả ấy giảm
đi 30%. Nhưng người ta vừa đưa ra một báo động: sâu bọ phá hoại các loại quả ấy
đã bắt đầu quen thuốc, và đề nghị sử dụng luân phiên phôtphamit với các loại
thuốc khác, dù kém hiệu lực hơn, nhưng "lạ" đối với loại sâu ấy. Bằng
cách đó mới có thể duy trì tính đặc hiệu của phôtphamit.
371. Những chiếc túi hoà tan dùng làm gì?
Để hạn chế đến mức tối thiểu sự tiếp xúc của người với thuốc trừ
sâu, một công ty Mỹ đã đề nghị đưa thuốc vào đất trong những túi chất dẻo. Tất
nhiên túi này phải bằng chất dẻo hoà tan, để dần dần dưới tác dụng của nước mưa
và nước ngầm, sẽ giải phóng thuốc trừ sâu. Để bảo vệ thuốc khi chuyên chở và
bảo quản, phải bọc những túi đó bằng màng pôlyme, thường bền với nước.
372. Axit trên giấy có tác dụng gì?
Giấy ngày càng được dùng nhiều làm bao bì (hộp) đựng các loại thực
phẩm. Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra rằng nếu phủ bên trong hộp giấy một
lớp mỏng dung dịch axit sorbic thì thời gian bảo quản tăng lên rất nhiều. Thí
dụ; nếu sữa chua đựng trong hộp này và giữ trong tủ lạnh thì sau 40 ngày vẫn
không thấy men phát triển đáng kể.
373. Viện trừ muỗi trong mùa hè chứa chất gì?
Hãng Zoecon đã sản xuất viên trừ muỗi có chứa chất mêtôpren dưới tên
thương phẩm Altosid, hoà tan được trong nước và đã thử thuốc này trong mùa hè
từ năm 1976. Trong năm 1977, hãng này tiến hành thí nghiệm mở rộng để nhanh
chóng đưa vào sản xuất trên quy mô công nghiệp. Viên Altosid được dùng ở những
nơi muỗi sinh sản như cống rãnh, nước thối, mà ở đó không thể diệt muỗi bằng
phương pháp phun thông thường.
374. Một loại đường hoá học mới có tên là gì?
Hãng Tetead Lyle (Anh) đang nghiên cứu sản xuất một loại đường hoá
học mới gọi là Talin. Loại đường này là dịch tinh chế của hợp chất Taumatin,
lấy từ quả của một loài cây tương tự như cây cao su Thaumatococcus danielli mọc
ở vùng Tây Phi. Độ ngọt của đường hoá học mới này gấp 4000 lần đường mía, nghĩa
là ngọt hơn saccarin.
375. Các chất hoá học trong tỏi có tác dụng chữa bệnh như thế nào?
Hành và tỏi là những gia vị cho nhiều món ăn nhưng từ lâu cũng đã
được biết đến như là những vị thuốc. Tỏi đã từng dùng làm thuốc chữa chứng phát
ban, viêm bạch cầu, viêm phổi và rối loạn đường ruột trước khi có những biệt
dược đặc hiệu.
Ngày nay người ta đã hiểu biết khá chi tiết về thành phần hoá học
trong hành, tỏi. Hàng trăm hợp chất đã được phân lập và phân tích cấu trúc cũng
như nghiên cứu về dược lý. Những hợp chất quan trọng nhất lấy từ hành, tỏi
thường chứa từ một hoặc nhiều nguyên tử lưu huỳnh (S) trong cấu trúc. Đó là các
hợp chất thiosunfua, polisunfua. Chúng có mùi và hoạt tính sinh học cao. Tuy
vậy, cho đến gần đây những bí hiểm về cơ chế tác dụng sinh học của nhiều hoạt
chất mới được tìm ra. Chẳng hạn như phát hiện ra chất etyletan disunfinat có
tác dụng ngăn ngừa bệnh ung thư. Y học đã khẳng định hàm lượng nitrit cao trong
dạ dày là một độc tố liên quan đến sự xuất hiện ung thư dạ dày. Thế mà xét
nghiệm đã cho thấy người có thói quên ăn tỏi sống, sau khi ăn xong, hàm lượng nitrit
trong dạ dày giảm hẳn. Người ta cũng đã chứng minh được tác dụng ức chế phát
triển ung thư của các hợp chất polisunfua không no. Chẳng hạn như chất ajoen là
một hợp chất chứa 3 nhân chiết tách từ tỏi có tác dụng diệt tế bào ung thư
lympho. Chất diallyl diunfua còn có khả năng làm gia tăng sinh trưởng các enzym
khử độc.
Tỏi còn tác dụng hạ hàm lượng mỡ và cholesterol trong máu. Những
người có bệnh tim nếu thường xuyên sử dụng tinh dầu tỏi sẽ làm giảm nguy cơ
nhồi máu cơ tim hay nghẽn mạch bởi chất ajoen và dithin có trong tinh dầu tỏi.
Tác dụng ức chế kết tụ tiểu cầu là do các chất adenosin, allixin, ajoen và các
polysunfua khác có trong tỏi.
Sau khi ăn tỏi, hơi thở có mùi khó chịu, đó là mùi của các hợp chất
allylmetyl sunfua, disunfua, diallylsunfua; 2-poropen thiol.
Xoa tỏi dưới gan bàn chân thì sau vài giờ có thể phát hiện mùi tỏi
trong hơn thở, lí do là chất allixin sau khi thấm qua da có thể tan trong mỡ và
hấp thụ trong hệ lympha, không bị phân huỷ trong môi trường không chứa cistein
và protein và thoát ra theo đường bài tiết. Còn ăn tỏi thì allixin sẽ phản ứng
lập tức với các nhóm cistein chuyển thành những chất ức chế sinh hoá quan
trọng.
Như vậy, tỏi vừa là gia vị, vừa là một vị thuốc quý.
376. Tóc có thành phần hoá học và cấu tạo như thế nào?
Tóc, sừng, móng chứa một loại protein khá bền gọi là kêratin.Trong
kêratin có các liên kết đisunfua nối các mạch dài peptit lại với nhau, ngoài ra
còn có các liên kết hiđro, liên kết các cầu muối, liên kết vander walls... để
tạo thành các vòng xoắn. Có hai loại kêratin anpha (µ) và beta (b). Tóc
quăn tự nhiên là tóc có nhiều b kêratin.
Màu của tóc do hai sắc tố quyết định: sắc tố lumelanin làm cho tóc có màu từ
hung nhạt đến đen tuyền, sắc tố phêomelamin làm cho tóc có màu từ hoe vàng,
vàng óng, đến đỏ, kêratin trong tóc người chứa đến 12% xistin. Nếu làm giảm số
liên kết đisunfua của tóc bằng cách khử bằng hoá chất thì độ tan của kêratin
tăng đáng kể, tóc sẽ mềm ra có thể uốn theo bất kì kiểu gì cũng dễ. Việc xử lí
các sản phẩm khử bằng các chất oxihoá sẽ
đưa về trạng thái ban đầu là kêratin. Đó là cách xử lí tóc để uốn tóc.
377. Plasma là gì?
Plasma thường được gọi là trạng thái thứ tư của vật chất vì nó không
phải là chất rắn, không phải là chất lỏng và cũng không phải là một chất khí
bình thường. Plasma là một khí ion hoá, từ một tổng thể nguyên tử được biến
thành các ion mang điện tích dương hoặc âm. Tuy không thường gặp trên trái đất,
nhưng trong vũ trụ nó chiếm tới 99%. Mặt trời là một quả cầu lửa plasma.
Do có thành phần phức tạp nên plasma rất khó chế ngự, plasma được
phân ra làm plasma "nóng" hình thành ở nhiệt độ cao và plasma
"lạnh" tạo ra bởi các điện trường. Người ta dự báo plasma
"lạnh" sẽ trở thành một trong những kĩ thuật chủ chốt trong thế kỉ
21.
Plasma được dùng để tẩy sạch bề mặt có chứa vết dầu,
mỡ, sáp hoặc các tạp chất khác. Plasma còn dùng để tẩy các lá nhôm và bình lọ
bằng chất dẻo dùng để đựng thực phẩm trong công nghiệp chế biến, để khử trùng
các dụng cụ giải phẫu hoặc cấy trồng trong y học, sinh học...
Tẩy rửa sạch bằng plasma dễ cho tế bào sống bám dính và phát triển,
giúp dễ dàng cấy các tế bào.
378. Các nguyên tố hoá học hình thành trong vũ trụ như thế nào?
Ở khoảng không gian giữa các vì sao từ hàng tỷ năm trước có các mây khí hiđro và bụi. Một lượng lớn vật
chất này tạo nên một trường hấp dẫn khổng lồ, khi bị nén thành một khối. Tại
tâm của khối này nhiệt độ lên tới hàng triệu độ. Trong điều kiện này xảy ra các
phản ứng tổng hợp hạt nhân, dẫn đến sự hình thành các nguyên tố hoá học khác
nhau. Thí dụ như các phản ứng sau:



379. Văn hoá trầu cau có ý nghĩa hoá học và nhân văn như
thế nào ?
Truyền thuyết dân gian "trầu
cau" được lưu truyền từ đời Văn Lang đến nay. Ngày nay còn rất ít người ăn
trầu nhưng miếng trầu đã đi vào đời sống văn hoá, tình cảm và phong tục của dân
tộc ta hàng mấy ngàn năm văn hiến. Văn hoá "Trầu cau" mang tính độc
đáo của người Việt Nam. Tích truyện "Trầu cau' đã được điện ảnh Việt Nam
dựng thành phim truyện hấp dẫn, còn ca khúc về tích "trầu cau" đã có
từ trước cách mạng tháng 8 (1945)
· Ý nghĩa hoá học :
Trước đây người ta thường mời nhau
ăn miếng trầu cho vui, cho ấm người, cho thơm miệng... có đúng ăn trầu sẽ làm
cho vui, ấm và sạch miệng hay không ?
Lá trầu có chứa từ 1,8 - 2,4% tinh
dầu, chủ yếu là chavibetol và chavicol cùng một số phenolic khác. Nước ép lá
trầu có tác dụng tăng áp, giảm mạch ngoại vi và tính kháng sinh rất mạnh. Đông y dùng trầu đánh gió, chữa cảm cúm, bỏng, chữa vết thương.
Trong hạt cau (y học cổ truyền gọi là - đinh lang) có khoảng 18%
tanin, 14% chất dầu, 2% muối khoáng và các hợp chất ancaloit, đặc biệt là
arecolin (C6H13NO2) chiếm 0,5%. Chính arecolin
có tác dụng làm tiết nước bọt, làm co đồng tử mắt, kích thích thần kinh phó
giao cảm.
Trầu cau không thể thiếu vôi, không có vôi miếng trầu không thể
chuyển sang màu đỏ. Vôi là chất kiềm, khi tác dụng với arecolin, chất này có
tính độc và chuyển thành arecaidin không độc mà có tác dụng gây hưng phấn.
Người ta thường thêm vào miếng trầu một lát vỏ rễ cây chay. Vỏ có
tác dụng tăng thêm tanin cho miếng trầu. Nhai miếng trầu khoảng 15 - 20 phút,
bắt đầu "giập bã trầu", ở nhiệt độ cơ thể 370C, các phản
ứng hoá học, phản ứng sinh màu giữa các phenolic, arecolin, arecaidin, tanin và
các chất khác trong môi trường kiềm đã xảy ra. Chính các phản ứng này tạo cho
người ăn trầu cảm giác say, hưng phấn, ấm áp làm cho da mặt hồng hào, môi đỏ
thắm, chống cảm cúm, diệt khuẩn, làm sạch miệng, làm chặt chân răng. Ăn trầu
chính là một cách trang điểm của người phụ nữ trước đây. Miếng trầu làm cho đôi
má thêm hồng, đôi môi thêm thắm, cho lòng thêm say.
· Ý nghĩa nhân văn:
Lá trầu, quả cau là hai thứ không
thể thiếu trong các đồ tế lễ, thờ cúng thần thánh, tổ tiên. Người ta thường nói
"hương, hoa, phù, tửu, bạc lễ chi nghi" (hương, hoa, trầu, rươu, bạc
lễ là nghi thức).
Miếng trầu có mặt trong mọi lễ nghi,
cưới hỏi, giỗ chạp, tang gia... đã trở thành phong tục, truyền thống của người
Việt Nam. Ngày nay tuy không ăn trầu nhưng trong các lễ nghi người ta vẫn giữ
phong tục truyền thống nghĩa là vẫn có trầu, cau. Lễ dạm hỏi còn gọi là lễ
"bỏ cơi trầu".
Miếng trầu mang rất nhiều ý nghĩa:
· Miếng trầu dùng trong giao tiếp,
miếng trầu là đầu câu chuyện:
"Tiện
đây ăn một miếng trầu
Hỏi rằng
quê quán ở đâu chăng là "
· Miếng trầu dùng để trao duyên:
"Trầu
này trầu quế, trầu hoa
Trầu
Loan, trầu Phượng, trầu ta, trầu mình"
· Miếng trầu dùng để trách người bạn
trai chậm chân:
"Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh không hỏi những ngày còn không
Bây giờ em đã có chồng
Như là cá chậu, chim
lồng biết sao "
· Miếng trầu dùng để khuyên nhủ lứa đôi
"Có phải duyên nhau thì thắm lại
Đừng xanh như lá, bạc như vôi"
· Miếng trầu dùng nói khi giúp đỡ việc cưới xin:
"Giúp cho quan tám tiền cheo
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng
cau"
· Miếng trầu dùng để trang điểm:
"Trầu này trầu tính, trầu tình
Ăn vào
thêm đỏ môi mình, môi ta"
· Miếng trầu dùng để đo thời gian:
"Láng giềng đã đỏ đèn đâu
Chờ em ăn giập bã trầu em sang
Đôi ta cùng ở một làng
Cùng đi một ngõ vội vàng chi anh"
Hoặc
là:
"Ngồi chơi mới giập bã trầu
Mong anh nán lại, đôi câu giãi bày"
Ông cha ta đã dùng miếng trầu để diễn đạt các cung bậc của tình cảm.
Cây cau, giàn giầu (trầu) đã đi vào
văn thơ ca.
Thơ Nguyễn Bính:
"Nhà
em có một giàn giầu
Nhà tôi
có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài
ngồi nhớ thôn Đông
Và:
"Cái
ngày em đi lấy chồng
Giầu
không dây chẳng buồn leo vào giàn"
Dân ca quan họ Bắc Ninh"
"Cau
non sánh với trầu vàng
Con non
kết bạn, trầu vàng kết duyên"
Hay:
"Tương
tư môi đỏ dạ sầu
Chưa ăn
mà đã thấy say miếng trầu"
Và:
"Say
nhau quan họ càng say
Nâng niu
một miếng trầu này mời nhau
Đã thương
đến tận vườn cau
Đã yêu
xin gửi miếng trầu làm tin"
Và lúc giã bạn:
"Miếng
trầu cánh phượng hồng môi
Dạt dào
câu hát người ơi đừng về"
380. Văn
hoá trà có ý nghĩa hoá học và nhân văn như thế nào ?
Từ xa xưa, người Trung Hoa đã coi
uống trà là một nghệ thuật mang đậm màu sắc văn hoá. Họ đã đúc rút kinh nghiệm,
biết sử dụng triệt để các công năng của trà vào việc phòng và chống bệnh tật.
Đó là các tác dụng như giải khát tiêu thực, khử đờm, sáng mắt, lợi tiểu, sảng
khoái tinh thần, tăng cường khả năng đề kháng của cơ thể. Tuy nhiên, trà cũng
có hiệu ứng tiêu cực nếu sử dụng không đúng cách. Ví dụ trước khi đi ngủ nếu
uống trà sẽ làm cho ta khó ngủ hoặc mất ngủ. Buổi sáng ngủ dậy chưa ăn sáng đã
uống trà sẽ làm bụng cồn cào. Những người bị mắc các chứng cao huyết áp nặng,
bệnh tim, loét dạ dày cần phải thận trọng khi uống trà. Những người bị chứng
suy nhược thần kinh, mất ngủ, bệnh tuyến giáp thì không được uống trà. Phụ nữ
mang thai không được uống trà quá đặc, quá nhiều, không được uống thuốc với trà,
nhất là các loại có sắt trong thành phần. Người già không nên uống trà đặc, trẻ
nhỏ không nên uống trà lạnh.
Thành phần dinh dưỡng và công hiệu
của các loại trà không giống nhau. Hàm lượng vitamin C và một số chất khác
trong trà xanh (trà lục) nhiều hơn nhiều so với trà đen (hồng trà), trà xanh có
công hiệu cao hơn trong đề kháng bức xạ, phòng xơ cứng huyết quản, giảm mỡ máu,
tăng tế bào bạch huyết, chống nhiễm khuẩn. Về mặt y học, uống trà xanh tốt hơn
uống trà đen.
Gần đây người ta còn phát hiện nước
trà xanh có khả năng tiêu huỷ tế bào ung thư. Allan Conney, Viện đại học New
jersey (Mỹ) cho biết: Trong số chuột đã
được cạo lông, tiếp xúc với tia tử ngoại (UV) với liều lượng cao trong 20 tuần.
Sau đó, được xoa lên lưng một dung dịch trà xanh có chứa cafeine và gallate
d'épigallocathecine (GEGC), thì so với lô chuột đối chứng chỉ có 30% bị ung thư
da.
· Tận dụng hết khả năng về dinh dưỡng
của trà :
Ở Trung Quốc, theo tập tục, dân ở
nhiều vùng không chỉ thích uống trà mà sau khi uống hết nước họ còn ăn hết cả
bã trà.
Dù uống nước trà hay ăn bã trà đều
rất có ích đối với cơ thể con người. Vì trong trà có chứa rất nhiều vitamin và
một lượng đáng kể protein, axit béo, chất khoáng.
Uống trà về mặt khoa học không tốt
bằng ăn trà. Nếu ăn, vitamin trong trà được hấp thụ tốt hơn, làm tăng khả năng
hoạt động co bóp của dạ dày, đẩy nhanh tốc độ bài tiết chất cặn, làm dạ dày
tiêu hoá và hấp thụ thức ăn tốt hơn.
· Uống trà có thể bảo vệ thị lực:
Chất tím võng mạc trong mắt là do vitamin A
hợp thành. Khi nhìn lâu(xem tivi hay nhìn màn hình máy vi tính) chất này bị tổn
hao, nếu không bổ sung kịp thời bằng một lượng vitamin A thì sẽ làm giảm thị
lực, dẫn tới chứng quáng gà. Trong trà có chứa nhiều vitamin, trong đó có
vitamin A.
Y học hiện đại đã phát hiện ra nước trà có tác dụng tiêu trừ những
chất phóng xạ có hại đối với cơ thể con người. Trong trà chứa những chất có khả
năng hấp thụ chất phóng xạ, bảo vệ công năng tạo máu, đề kháng sự bức xạ, gia
tăng bạch huyết cầu.
· Những điều nên biết khi uống trà:
Trà gừng có thể trị bệnh lị; trà
đường có lợi với đường ruột, trà hoa cúc làm sáng mắt, uống trà quá nóng sẽ làm
bỏng ngũ tạng, uống trà sau khi ăn sẽ có tác dụng tăng sự tiêu hoá thức ăn,
uống trà sau khi uống rượu có tác dụng giải rượu, uống trà buổi sáng làm tỉnh
táo tinh thần; uống buổi tối sẽ khó ngủ, uống trà khi bụng đói làm rối loạn
tinh thần, uống trà quá nhiều làm gầy người, vàng da, uống trà đúng cách sẽ
tăng tuổi thọ.
· Trung Quốc là một quốc gia trồng chè, chế biến
chè, uống trà sớm nhất thế giới. Từ khi người ta nếm các loại cây cỏ và phát
hiện ra chè có tác dụng giải khát và làm hưng phấn tinh thần thì chè được sử
dụng rộng rãi ở Trung Quốc. Đến đời Đường, Lục Vũ đã đem kinh nghiệm uống trà
của mình viết thành một cuốn sách "Trà kinh" (kinh nghiệm uống trà).
Ngày nay trà được công nhận là đồ
uống tự nhiên có lợi cho sức khoẻ của con người.
Cây chè thường trồng ở những vùng có
khí hậu nóng, ẩm và được trồng theo từng vườn. Người Trung Quốc có lịch sử
trồng chè hàng mấy ngàn năm, sớm nhất là vùng Tứ Xuyên sau đó đến lưu vực sông
Trường Giang và sau cùng là các tỉnh vùng duyên hải.
SriLanka là quốc gia có sản lượng chè
nhiều nhất trên thế giới, tiếp theo là Trung Quốc và Ấn Độ.
Ở Việt Nam chè được trồng nhiều ở
các tỉnh trung du của Bắc Bộ như Phú Thọ và ở các tỉnh Nam Trung Bộ như Lầm
Đồng...
· Qui trình chế biến chè:
Trà muốn ngon thì phải
tự tay hái những búp non trên cây, lá già thì có thể dùng máy thu hoạch.
Búp chè qua quá trình lên men thì chuyển từ màu xanh sang đen. Trong
quá trình làm trà, vì quá trình lên men khác nhau nên sản phẩm trà có chất
lượng và phong vị khác nhau. Trà xanh thì không cần qua lên men. Các bước chế
biến cơ bản nhất là:
- Búp chè đã hấp đưa sang làm lạnh.
- Vừa trộn vừa sấy khô trà bằng hơi nóng
- Vò trà thật kĩ cho đến khi lá chè nhỏ dài là được.
Từ những búp chè chế thành trà uống là cả một quá trình vò và sao
nhiều lần.
· Các loại trà:
- Trà xanh: Là loại trà không qua
quá trình lên men. Búp chè hái xong được sao nhanh qua lửa. Khi pha, trà có màu
xanh nên gọi là trà xanh. Trà hương là trà xanh ướp hoa
mà thành.
- Trà đen được sản xuất từ búp chè được ủ lên men, nước có màu hung
đỏ, vị thơm dịu.
- Trà lipton: Búp chè sau khi sao được vò kĩ, tiếp theo cho lên men
đầy đủ trong một thời gian cần thiết. Có 4 loại trà lipton là lipton táo,
lipton nho, lipton cam, lipton phật thủ.
- Trà Ôlong: chỉ qua một nửa công
đoạn lên men, được phân ra làm 3 loại trà có mức lên men cao, thấp hay vừa. Một
loại rất đặc trưng của trà này là trà Ôlong.
· Lá chè, ngoài chất có hương (tinh
dầu), chất kích thích (cafein) còn chứa một lượng đáng kể tanin (từ 6 đến 12%,
có khi 20%). Chất này qua chế biến cho vị chát và hương vị đặc biệt lí thú của
trà.
Các nhà khoa học cho rằng tanin ở
trong trà là một phức chất, có thể qui vào catechin, leucoanthocyanin và một số
hiđroxi axit.
Khi ta pha trà, các chuyển chất của
tanin và tinh dầu sẽ thẩm tan ra trong nước trà làm cho nước trà có màu vàng
chanh hoặc vàng nâu. Nếu gặp phải nước cứng chứa nhiều ion Ca2+ và
Mg2+ nước trà có màu vàng nâu hay đỏ nâu.
· Uống trà đã trở thành nhu cầu thiết
yếu trong đời sống hàng ngày của con người. Cùng với tiến bộ của xã hội, người
ta ngày càng coi trọng nghệ thuật uống trà. Muốn uống
trà ngon thì phải biết nghệ thuật pha trà.
Các loại trà khác nhau, cần dùng nước ở nhiệt độ khác nhau để pha
trà.
Khi pha trà xanh nên dùng nước đã đun sôi, để nguội tới khoảng 70 -
800C là tốt nhất, còn trà đen cần nước có nhiệt độ khoảng 80 - 850C
bởi vì nếu dùng nước sôi sùng sục để pha trà sẽ làm phá hoại vitamin C trong
trà và làm giảm giá trị dinh dưỡng của trà. Trước tiên phải rửa sạch ấm pha trà, cho trà
vào ấm, đổ nước sôi chỉ khoảng 1/3 dung lượng ấm. Để yên khoảng 5-> 10 phút
rồi mới cho thêm nước vào. Làm như vậy sẽ giữ được giá trị dinh dưỡng và hương
vị của trà. Pha được trà cần rót ra ngay để tránh chất tanic trong lá chè ngấm
ra nước, khi uống sẽ đắng.
· Phương pháp pha trà với đường:
Muốn có chén trà thơm ngon và ngọt
có thể pha như sau:
Dùng một tích pha trà sạch, đổ nước
sôi vào đó trước rồi cho thêm một ít đường trắng hay đường đỏ, khuấy cho tan
hết rồi cho trà. Để yên khoảng 5 phút, sau đó rót ra chén ta sẽ có chén trà vừa
thơm vừa ngọt. Trong trà có chứa nhiều loại kiềm thực vật, trong số đó chủ yếu
là chất caphein, chất này rất dễ hoá hợp với đường glucozơ hoặc saccarozơ.
Ngày xưa các cụ thường coi: uống trà
là một nghệ thuật công phu, được nâng lên thành "Trà Đạo". Ngày nay
uống trà đã trở nên phổ biến khắp thế giới.
Các dân tộc vùng Châu Á thích trà
với hương vị chát đậm, hậu vị ngọt dịu, có thêm mùi của các loại hoa: Sen,
nhài, ngâu.. hoặc các loại thảo mộc chứa chất thơm như quế...
Các dân tộc vùng Châu Âu, Châu Mỹ lại thích uống trà có vị chát vừa
phải, hậu vị ngọt, có màu nước đỏ nâu gọi là trà đen.
Để chọn ấm pha trà thì ngày xưa các cụ có câu: "Thứ nhất Thế
Đức gan gà, thứ nhì Lưu Bội, thứ ba Mạch Thần". Đó là tên các loại ấm pha trà của Trung Quốc có
bán ở Hà Nội (thời nhà văn Nguyễn Tuân).
Khi thưởng thức hương vị của trà,
theo người xưa chỉ cần uống một chén, uống đến chén thứ hai là vì khát nước quá
còn chén thứ ba, thứ tư thì quả là... ngưu ẩm (uống như trâu)
· Để bảo quản trà được lâu, cần cho
trà vào túi nilong sạch, hơ miệng túi qua ngọn lửa cho kín rồi bảo quản trong
tủ lạnh. Làm như vậy trà sẽ giữ được nguyên mùi vị trong một năm.
381. Chè đắng là loại chè gì ?
Ở Việt Nam cây chè đắng là loại cây
cổ thụ mọc hoang dã trên núi đá cao ở Cao Bằng, cây cao tới 33m,
đường kính thân to từ 60 đến 120 cm. Ngoài ý nghĩa thảo dược quí hiếm, với
hương thơm đặc biệt, vị đắng dịu nhưng sau ngọt mãi... đã tạo nên một nét mới
của văn hoá Trà Việt mà cái thú thưởng thức cũng giống như các trà truyền thống
khác.
Trong lá của cây chè đắng có tới 16
axit amin chiếm 55,92% thành phần của lá. Với 5 nhóm chất: Saponintritecpen,
Flavonoi, axit hữu cơ, polyssa charid và
carotenoid có trong lá chè đắng đều là những nhóm chất có nhiều tác dụng sinh
học quan trọng. Công dụng của chè đắng là tăng cường miễn dịch, giảm mỡ, giảm
cholesterol, điều hoà huyết áp, an thần, giải độc, giải rượu, kích thích tiêu
hoá, ngủ tốt...
Hơn 2000 năm trước, người Phương
Đông đã biết đến giá trị dược liệu của cây chè đắng.. Trước đây, chè đắng là
một thảo dược quí hiếm dành cung tiến nhà Vua dưới nhiều triều đại. Ngày nay
chè đắng đã đi vào sinh hoạt thường nhật của mọi người.
382. Văn hoá rượu có ý nghĩa hoá học
và nhân văn như thế nào
Rượu uống tên hoá học là etanol có
công thức C2H5OH. Rượu trắng là dung dịch của C2H5OH
trong nước với nồng độ khác nhau. Độ rượu là phần trăm thể tích của rượu trong
dung dịch nước. Rượu 400 là loại rượu mà 100 ml dung dịch rượu này
thì có 40ml rượu và 60ml nước. Rượu có nồng độ cao khoảng 80 0® 90 gọi là cồn.
Về hoá học, rượu là dẫn xuất của
hidrocacbon trong đó một hoặc nhiều nguyên tử hiđro được thay thế bằng nhóm
hidroxyl (OH). Đó là khái niệm chung về rượu, nhưng chỉ có etanol mới uống
được. Trên thế giới, chẳng dân tộc nào không dùng rượu, có khác chăng chỉ là
khẩu vị từng vùng.
Rượu là con dao hai lưỡi, nếu dùng
ít và hợp lí thì có lợi còn khi lạm dụng dẫn đến nghiện lại là kẻ thù nguy
hiểm.
Về mặt y học, rượu có tính gây ngủ
và an thần, ức chế thần kinh, giảm đau, nếu uống ít sẽ tăng tiết dịch vị, tăng
hấp thụ, tăng nhu động ruột, ăn ngon miệng... Vì vậy sẽ là bất công và thiếu
khách quan nếu chỉ hoàn toàn lên án rượu, coi rượu là kẻ thù nguy hiểm như ma
tuý và thuốc lá.
Ngày xưa, các cụ có câu: “Nam vô tửu
như kỳ vô phong” đã nói lên tác dụng hưng phấn của rượu. Rượu ngâm thuốc gọi là
rượu thuốc dùng để chữa bệnh và tẩm bổ cơ thể.
Cái nguy hiểm là ai cũng biết uống
nhiều rượu là có hại nhưng hay bị “quá chén” và dễ nghiện khi đã nghiện thì rất
khó từ bỏ . Đối với một số người nó như tình yêu. Nhà
thơ Tản Đà đã viết:
“Say sưa nghĩ cũng hư đời
Hư thì hư thật, say thời (thì) vẫn say”
Trong các cuộc vui chúng ta nên “tửu bất khả ép” vì ngạn ngữ Nga có
câu: “Khi say biển chỉ đến đầu gối” mà nghiện thì “Trời chỉ bé bằng vung”. Lý
Bạch một nhà thơ lớn đời Đường ở Trung Quốc, đã quá say khi làm thơ mà nhảy
xuống sông vớt ánh trăng vàng.
Tổ chức y tế Thế giới kêu gọi mọi người bỏ rượu vì quá nhiều tác
hại: hàng năm tiêu tốn 50 tỷ đô la ở Mỹ; 96 tỷ mác ở Đức; 70% tai nạn xe cộ; tỷ
lệ nghiện và chết cao (26% do ngộ độc cấp bởi các tạp chất độc hại như anđêhit,
metanol… có trong rượu).
Thế nhưng, một số nước như Liên Xô (cũ), Cô - oet đã cấm rượu mà
không thành công. Chúng ta không khuyến khích uống rượu, nhưng rượu vẫn tồn tại
trong cuộc sống hàng ngày. Vì vậy cũng nên tìm hiểu về văn hoá rượu (Drrinking
Culture)
Rượu có 2 loại: Loại chế từ hoa quả
và loại chế từ ngũ cốc.
· Rượu chế từ hoa quả, trước tiên phải kể đến
rượu nho (vang nho). Có vang trắng, vang đỏ (cho phụ nữ) vang Bordeaux, Alsace
(Pháp), vang Alazan (Georgie), vang Mônđavi, vang Bungari v.v...
Loại vang sủi bọt, sâm banh mang địa
danh Champagne (Pháp) đặc biệt vùng Reims, cách thủ đô Pari (Pháp) 140 km. Hãng
Piper - Heidseik ở vùng này, thành lập từ 200 năm trước, có hầm rượu dài tới 16
km, thường xuyên chứa được 15 triệu chai và một bảo tàng dưới lòng đất chuyên
lưu giữ các loại sâm banh của hầu hết các vùng trên Trái Đất.
Cầu kì hơn là rượu Cognac. Cogac là
một địa danh cách Pari 600 km. Rượu Cognac đắt vì được làm từ loại nho đặc biệt
do được chọn giống kĩ. Qua quá trình lên men
chưng cất, ủ trong các thùng gỗ sồi đặc sẳn (loại sồi Limousin hoặc Troncais do
nhà nước quản lí) với thời gian khá dài từ 3 đến 40 năm.
Nếu ủ trong khoảng 3 - 5, rượu có
nhãn V * S *; nếu ủ trên 5 năm: nhãn VSOP; từ 25 - 35
năm: nhãn XO. Loại này được 4 hãng sản xuất: Hennesy, Martel, Remy Martin, hay
Martel có giá từ vài trăm đến vài ngàn đô la. Có loại Cognac dành cho vua chúa
hay tỉ phú - nhãn XO trị giá 19000 franc Pháp, hoặc 4000 USD (40 triệu đồng
Việt Nam).
Ở nước ta do điều kiện khí hậu, thổ
nhưỡng không có các loại nho ngon nên dùng vang táo, mơ, mận, dâu... cũng theo
nguyên tắc lên men, chưng cất nói trên và chỉ ủ trong thời gian ngắn. Ở Hà Nội có làng rượu Mơ nổi tiếng, đã tồn tại
cách đây 6, 7 trăm năm ở vùng Bạch mai - Hoàng Mai - Tương mai nay là xã Hoàng Văn Thụ, Trương
Định thuộc quận Hai Bà Trưng. Đó là rượu ngon nhất Hà Thành, “bất ẩm bất tri kỳ
vị”.
Trong Tam Quốc, Tào Tháo và Lưu Bị
đã uống rượu mơ mỗi khi bàn luận anh hùng. Vua Tấn khi đấu cờ với Chung Vô Diệm
cũng dùng rượu mơ.
· Rượu chế từ ngũ cộc (tinh bột); trước hết phải
kể đến rượu Whissky, tiêu biểu và thường gặp là Whissky Chivas Regal ở vùng
Scotland phía Bắc nước Anh. Whisky loaị này được làm từ mạch nha với 3 loại
thuần chủng: Glenlivet, Long mann và Glen Grant do một thợ chuyên nghiệp pha
chế. Rượu được ủ trong thùng gỗ sồi ít nhất 12 năm. Rượu được sản xuất từ năm
1801, do hãng Chivas and Glenlivet Group thành lập từ năm 1786. Với ngót 2 thế
kỉ kinh nghiệm, hãng đã cho ra thị trường một loại rượu ngon có tiếng, khoảng
430, mỗi năm 3 triệu thùng, mỗi thùng 12 chai 750 ml, ở 150 nước
trên thế giới.
Sau này có hãng Seagram Spiret to
hơn, bao trùm cả Whisky Bourbon, Canda và Bắc Mỹ, còn được gọi là “ông hoàng Whissky”
(Prince of Whisky)
Ở Nga, Ba Lan, Đông Âu có Vodka cũng
là rượu trắng, ngon nấu từ ngũ cốc. Ở Cu ba có rượu Rhum từ mía, ở Nhật có rượu
Sakê từ gạo, ở Trung Quốc có rượu Mao Đài, chế từ cao lương, chưng cất và ủ trong 6 năm tại một địa danh tên là
mao Đài cách Bắc Kinh 700 km. Rượu Mao Đài đã được huy chương vàng ở hội chợ
Panama do Mỹ tổ chức năm 1913.
Ở Việt Nam có Lúa Mới, rượu đế (ở
miền Nam). Đó đều là các loại rượu chế từ ngũ cốc, có nồng độ cao từ 40 - 600.
Ở miền Bắc ngày xưa có rượu Tăm, rượu Ngang. Rượu Tăm là loại rượu mà khi lắc
mạnh chai cho tăm rượu bốc mạnh lên như reo, rồi để chai đứng yên, thì tăm lặn
ngay lập tức. Cất 10 lít rượu thường mới cất được một chai rượu tăm, vì thế nên
mới có câu : “Giúp em một thúng xôi vò, một con lợn béo một vò rượu tăm”. Còn
rượu Ngang là thứ rượu trắng mà người bán phải đựng vào bong bóng, thắt ngang
lưng để che mắt các nhà thi hành pháp luật, vì ngày xưa cấm nấu rượu lậu.
Ngày nay, trong các quầy rượu ta còn
gặp một thứ gọi là liquơ (liqueur). Chúng cũng được chế từ ngũ cốc (gạo, ngô,
khoai, sắn...) rồi qua chưng cất công nghiệp thành rượu nặng (trên 900)
sau tinh chế loại bỏ bớt chất độc (anđehit, metanol; để thu được “cồn thực
phẩm” có độ cồn thấp hơn, khoảng 40 - 600 . Các cơ sở sản xuất rượu
dùng loại cồn thực phẩm này pha thêm đường, màu thực phẩm và tinh dầu chanh,
cam, dâu, táo...thành các loại liquơ nhẹ, ngọt mà dễ uống mà ta vẫn quen gọi là
rượu mùi (rượu màu).
Ở nước ta, trong phong tục truyền
thống, thờ cúng tổ tiên, ma chay, cưới hỏi đều phải có trầu và rượu, đó là
những thứ không thể thiếu được, nhất là khi cưới hỏi:
“Cao tay
nâng chén rượu hồng
Mừng em,
em sắp lấy chồng xuân nay”
383. Vì sao rượu giả có thể làm chết
người?
Uống rượu giả có thể bị ngộ độc, có
trường hợp mù cả mắt, thậm chí cả tử vong. Những người làm rượu giả không phải
đem rượu trắng trộn thêm nước vì làm như vậy sẽ biết ngay bởi nó nhạt. Thường
bọn chúng dùng rượu metylic để thay một phần rượu etylic. Loại rượu giả này rất
độc.
Rượu etylic và rượu metylic có cùng
họ nhưng tính chất của chúng khác nhau. Rượu etylic là
chất lỏng trong suốt, mùi thơm dễ chịu, không độc. Rượu metylic có phân tử khối
bé hơn, nó chính là chất lỏng trong suốt rất độc, nó có nhiều ứng dụng, nó có
thể thay xăng làm nhiên liệu nhưng không dùng để pha đồ uống.
Rượu metylic rất độc đối với cơ thể người. Nó tác động vào hệ thần
kinh và nhãn cầu, làm rối loạn chức năng đồng hoá của cơ thể gây nên sự nhiễm
độc axit. Sau khi uống khoảng 8 giờ bắt đầu triệu chứng nhiễm độc axit, hôn mê,
đau đầu, bất tỉnh, lo sợ, co giật, mờ mắt, nôn mửa, thị lực giảm nhanh, trường
hợp nặng có thể bị mù hẳn. Nghiêm trọng hơn là mạch đập nhanh và yếu, hô hấp
khó khăn cuối cùng dẫn đến tử vong.
384. Người cổ đại uống rượu có hương vị gì ?
Người cổ địa Neolitic cũng uống rượu không kém chúng ta hiện nay.
Các nhà khoa học Hoa Kỳ phát hiện ra rằng dân Trung Đông đã từng say sưa ít
nhất là 7000 năm trước đây, sớm hơn 2000 năm như người ta đã tưởng. Tuy nhiên
những loại rượu mà người cổ đại thưởng thức lại có mùi nhựa thông.
Patrick Mc.Govern và các đồng nghiệp ở một trường đại học
Phiadelphia (Hoa Kỳ) phát hiện ra lớp cặn màu vàng trong một bình gốm cổ được
tìm thấy ở vùng Haji Firunz Tepe của Iran. Phân tích bằng cacbon phóng xạ người
ta biết được các bình đó được làm ra vào khoảng 5400 - 5000 “trước công nguyên:
Lớp cặn màu vàng là dấu hiệu của rượu nho bởi vì trong đó có viết của axit
lactric. Loại axit này có nhiều trong quả nho. Ngoài ra trong lớp cặn này còn
thấy cả nhựa thông là một chất phụ gia cho vào rượu thời cổ đại, chất này có
tác dụng diệt vi khuẩn, tránh để rượu lên men thành giấm.
385. “Hầm" rượu lớn
nhất trong vũ trụ nằm ở đâu ?
Các nhà khoa học người Anh là Geof Mac Donald (nhà thiên văn Trường
đại học tổng hợp ở Kent) và Tom Miller (nhà bác học và toán học ở trường Đại
học tổng hợp địa phương) đã phát hiện một đám mây khổng lồ toàn rượu lơ lửng
trong không gian, cách Trái Đất khoảng 10.000 năm ánh sáng (một năm ánh sáng
tương đương 9500 tỷ km).
Các nhà nghiên cứu Anh đó, phối hợp với một nhóm nghiên cứu ở trường
Đại học Tổng hợp Ohio (Mỹ) đã phát hiện ra rượu trong chùm sao Aigle mà ngôi
sao chính là Altair.
Đám mây khổng lồ này không thấy được bằng mắt thường mà chỉ biết
được nhờ vào việc phân tích các sóng vô tuyến thu nhận được qua một ăng ten ở
độ cao 4000 mét trên những ngọn núi lửa đã tắt ở Mauna Kea ở Hawaii. Tỷ trọng
của đám mây rất thấp: có khoảng vài ngàn phân tử C2H5OH trong một m3, trong khi tại các
xưởng sản xuất bia, số lượng các phân tử C2H5OH hàng tỷ tỷ lần
lớn hơn. Tuy tỉ trọng thấp nhưng đám mây lại chiếm một không gian khổng lồ, bán
kính cỡ 3 năm ánh sáng.
* Giầu không là tên cây cho lá để ăn
trầu
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TIỄN
TRONG DẠY HỌC HÓA HỌC
VẤN ĐỀ 1: “Hiện tượng mưa axit” là gì ? Tác hại như thế
nào ?
Khí thải công nghiệp
và khí thải của các động cơ đốt trong ( ô tô, xe máy) có chứa các khí SO2, NO,
NO2,…Các khí này tác dụng với oxi O2 và hơi nước trong không khí nhờ xúc tác
oxit kim loại ( có trong khói, bụi nhà máy) hoặc ozon tạo ra axit sunfuric
H2SO4 và axit nitric HNO3.
2SO2 + O2
+ 2H2O → 2H2SO4
2NO +
O2 → 2NO2
4NO2 +
O2 + 2H2O → 4HNO3
Axit H2SO4 và HNO3
tan vào nước mưa tạo ra mưa axit. Vai trò chính của mưa axit là H2SO4 còn HNO3
đóng vai trò thứ hai.
Hiện nay mưa axit
là nguồn ô nhiễm chính ở một số nơi trên thế giới.
Mưa axit làm mùa
màng thất thu và phá hủy các công trình xây dựng, các tượng đài làm từ đá cẩm
thạch, đá vôi, đá phiến ( các loại đá này thành phần chính là CaCO3):
CaCO3 +
H2SO4 → CaSO4 + CO2↑ + H2O
CaCO3 +
2HNO3 → Ca(NO3)2 + CO2↑ + H2O
Áp dụng: Ngày nay
hiện tượng mưa axit và những tác hại của nó đã gây nên những hậu quả nghiêm trọng,
đặc biệt là ở những nước công nghiệp phát triển. Vấn đề ô nhiễm môi trường luôn
được cả thế giới quan tâm. Việt Nam
chúng ta đang rất chú trọng đến vấn đề này. Do vậy mà giáo viên phải cung cấp
cho học sinh những hiểu biết về hiện tượng mưa axit cũng như tác hại của nó nhằm
nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Cụ thể giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho
học sinh trả lời sau khi dạy xong phần Sản xuất axit sunfuric trong bài “Axit
sunfuric. Muối sunfat”(Tiết 55-56 lớp 10 CB) hoặc áp dụng trong bài“Axit
nitric” (tiết 14-15 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 2: Vì sao dụng cụ phân tích rượu có thể phát hiện
các lái xe đã uống rượu?
Thành phần chính của
các loại nước uống có cồn là rượu etylic. Đặc tính của rượu etylic là dễ bị oxi
hóa. Có rất nhiều chất oxi hóa có thể tác dụng với rượu nhưng người chọn một chất
oxi hóa là crom(VI)oxit CrO3. Đây là một chất oxi hóa rất mạnh, là chất ở dạng
kết tinh thành tinh thể màu vàng da cam. Bột oxit CrO3 khi gặp rượu etylic sẽ bị
khử thành oxit Cr2O3 là một hợp chất có màu xanh đen.
Các cảnh sát giao
thông sử dụng các dụng cụ phân tích rượu etylic có chứa CrO3. Khi tài xế hà hơi
thở vào dụng cụ phân tích trên, nếu trong hơi thở có chứa hơi rượu thì hơi rượu
sẽ tác dụng với CrO3 và biến thành Cr2O3 có màu xanh đen. Dựa vào sự biến đổi
màu sắc mà dụng cụ phân tích sẽ thông báo cho cảnh sát biết được mức độ uống rượu
của tài xế. Đây là biện pháp nhằm phát hiện các tài xế đã uống rượu khi tham
gia giao để ngăn chặn những tai nạn đáng tiếc xảy ra.
Áp dụng: Tai nạn
giao thông luôn là nổi ám ảnh của mọi người. Một trong những nguyên nhân chính
xảy ra tai nạn giao thông chính là rượu. Nhằm giúp cho học sinh thêm hiểu biết
về cách nhận biết rượu trong cơ thể một cách nhanh và chính xác của cảnh sát
giao thông, giáo viên nên đưa nội dung này vào bài “Ancol” (tiết 56-57 lớp
11CB) hay “Rượu etylic”(tiết 3-4 lớp 12). Cụ thể, sau khi dạy xong bài “ Ancol
” giáo viên có thể đặt câu hỏi như trên để cho học sinh suy nghĩ, tìm tòi hướng
giải quyết vấn đề.
VẤN ĐỀ 3: Vì sao trước khi thi đấu các VĐV thể thao cần
xoa bột trắng vào lòng bàn tay?
Loại bột màu trắng
có tên gọi là “Magiê cacbonat”(MgCO3) mà người ta vẫn hay gọi là “ bột
magiê”. MgCO3 là loại bột rắn mịn, nhẹ có tác dụng hút ẩm rất tốt. Khi tiến
hành thi đấu, bàn tay của các vận động viên thường có nhiều mồ hôi. Điều đó đối
với các vận động viên thi đấu thể thao hết sức bất lợi. Khi có nhiều mồ hôi ở
lòng bàn tay sẽ làm giảm độ ma sát khiến các vận động viên sẽ không nắm chắc được
các dụng cụ khi thi đấu. Điều này không chỉ ảnh hưởng xấu đến thành tích mà còn
gây nguy hiểm khi trình diễn. MgCO3 có tác dụng hấp thụ mồ hôi đồng thời tăng
cường độ ma sát giữa bàn tay và các dụng cụ thể thao giúp vận động viên có thể
nắm chắc dụng cụ và thực hiện các động tác chuẩn xác hơn.
Ngoài ra với các vận
động viên giàu kinh nghiệm, họ có thể lợi dụng khoảnh khắc “xoa bột” làm giảm bớt
tâm lí căng thẳng; sắp xếp lại trình tự thực hiện thao tác, ôn tập lại các yếu
lĩnh, chuẩn bị tốt hơn tâm lí thi đấu để thực hiện các thao tác tốt.
Áp dụng: Đây là một
trong những “mẹo nhỏ” trong thi đấu thể thao cũng như vấn đề an toàn trong thi
đấu. Khi dạy phần “Ứng dụng của muối cacbonat” (Tiết 24 lớp 11CB) giáo viên có
thể kể cho học sinh nghe ứng dụng của muối magie cacbonat thông qua câu chuyện
trên.
VẤN ĐỀ 4: Vì sao đốt xăng, cồn thì cháy hết sạch, còn
khi đốt gỗ, than đá lại còn tro?
Bởi vì so với gỗ
và than đá thì xăng và cồn là những hợp chất hữu cơ có độ thuần khiết cao. Khi
đốt xăng và cồn chúng sẽ cháy hoàn toàn tạo thành CO2 và hơi H2O, tất cả chúng
đều bay vào không khí. Xăng tuy là hỗn hợp nhiều hiđrocacbon, nhưng chúng là những
chất dễ cháy. Vì vậy cho dù ở trạng thái hỗn hợp nhưng khi đốt đều cháy hết.
Với than đá và gỗ
thì lại khác. Cả hai vật liệu đều có những thành phần rất phức tạp. Những thành
phần của chúng như xenlulozơ, bán xenlulozơ, gỗ, nhựa là những hợp chất hữu cơ
dễ cháy và có thể “cháy hết”. Nhưng gỗ thường dùng cón có các khoáng vật. Những
khoáng vật này đều không cháy được.Vì vậy sau khi đốt cháy gỗ sẽ còn lại và tạo
thành tro.
Than đá cũng vậy.
Trong thành phần than đá ngoài cacbon và các hợp chất hữu cơ phức tạp còn có
các khoáng là các muối silicat. Nên so với gỗ khi đốt cháy than còn cho nhiều
tro hơn.
Áp dụng: Đây là
câu hỏi nhằm kích thích tư duy học sinh. Học sinh không lạ gì với hiện tượng
trên nhưng để giải thích thì không phải dễ. Giáo viên có thể nêu vấn đề trên
sau khi dạy xong mục “Dầu mỏ” (Tiết 53 lớp 11CB) hay cuối bài “Ancol
etylic”(Tiết 56-57 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 5: Vì sao sau những cơn giông, không khí trở
nên trong lành, mát mẻ hơn ?
Sau những cơn mưa,
nếu dạo bước trên đường phố, đồng ruộng, người ta cảm thấy không khí
trong lành, sạch sẽ. Sở dĩ như vậy là có hai nguyên nhân:
* Nước mưa đã gột
sạch bụi bẩn làm bầu không khí được trong sạch.
* Trong cơn giông
đã xảy ra phản ứng tạo thành ozon từ oxi:
Ozon sinh ra là chất
khí màu xanh nhạt, mùi nồng, có tính oxi hóa mạnh. Ozon có tác dụng tẩy trắng
và diệt khuẩn mạnh. Khi nồng độ ozon nhỏ, người ta cảm giác trong sạch, tươi
mát.
Do vậy sau cơn mưa
giông trong không khí có lẫn ít ozon làm cho không khí trong sạch, tươi mát.
Áp dụng: Đây là một
hiện tượng tự nhiên không xa lạ với học sinh. Một số học sinh cho rằng đây là
điều hiển nhiên vì “ sau cơn mưa trời lại sáng”. Tuy nhiên nhìn dưới góc
độ hóa học thì ta có thể giải thích được rõ ràng vấn đề này. Giáo viên có thể đề
cập trong phần ứng dụng của ozon hay đặt câu hỏi trên sau khi dạy xong bài giảng
về “Ozon” ( Tiết 50 lớp 10 CB).
VẤN ĐỀ 6: Vì sao khi sử dụng máy photocopy phải chú ý
đến việc thông gió ?
Chúng ta đều biết
khi máy photocopy làm việc thường xảy ra hiện tượng phóng điện cao áp do đó có
thể sinh ra khí ozon.
Với một lượng ít
ozon trong không khí thì có tác dụng diệt khuẩn, diệt vi trùng. Nhưng nếu lượng
ozon lại vượt qua giới hạn cho phép sẽ gây tổn hại cho đại não, phá hoại khả
năng miễn dịch bệnh, gây mất trí nhớ, biến đổi nhiễm sắc thể, gây quái thai ở
phụ nữ mang thai, v.v..Thậm chí ozon còn là chất gây ung thư nên tác hại của
ozon không thể kể hết được.
Hiển nhiên là lượng
ozon do máy photocopy sinh ra rất bé nên nếu ngẫu nhiên mà tiếp xúc với nó cũng
chưa có thể gây nguy hại cho cơ thể. Nhưng nếu tiếp xúc với ozon trong thời
gian dài và nếu không chú ý làm thông gió căn phòng thì do ozon tập hợp nhiều
trong phòng đến mức vượt tiêu chuẩn an toàn thì sẽ có ảnh hưởng đến sức khỏe
con người.
Cho nên khi sử dụng
máy photocopy cần chú ý đến việc thông gió cho phòng máy.
Áp dụng: Giáo viên
có thể đề cập vấn đề trên khi nói về tác hại của ozon trong bài giảng về “Ozon”
(Tiết 50 lớp 10 CB). Sau bài học học sinh sẽ biết được sự nguy hiểm khi photocopy
tài liệu và biết cách tránh được sự nguy hại này.
VẤN ĐỀ 7: Vì sao “chảo không dính” khi chiên ráng thức
ăn lại không bị dính chảo?
Nếu dùng chảo bằng
gang, nhôm thường để chiên cá, trứng không khéo sẽ bị dính chảo. Nhưng nếu dùng
chảo không dính thì thức ăn sẽ không dính chảo.
Thực ra mặt trong
của chảo không dính người ta có trải một lớp hợp chất cao phân tử. Đó là
politetra floetylen (-CF2-CF2-)n được tôn
vinh là “vua chất dẻo” thường gọi là “teflon”. Politetra floetilen chỉ chứa
2 nguyên tố C và F nên liên kết với nhau rất bền chắc. Khi cho teflon vào axit
vô cơ hay axit H2SO4 đậm đặc, nước cường thủy( hỗn hợp HCl và HNO3 đặc), vào
dung dịch kiềm đun sôi thì teflon không hề biến chất. Dùng teflon tráng lên đáy
chảo khi đun với nước sôi không hề xảy ra bất kì tác dụng nào. Các loại dầu
ăn, muối, dấm,… cũng xảy ra hiện tượng gì. Cho dù không cho dầu mở mà trực tiếp
rán cá, trứng trong chảo thì cũng không xảy ra hiện tượng gì.
Một điều chú ý là
không nên đốt nóng chảo không trên bếp lửa vì teflon ở nhiệt độ trên 250oC
là bắt đầu phân hủy và thoát ra chất độc. Khi rửa chảo không nên chà xát bằng
các đồ vật cứng vì có thể gây tổn hại cho lớp chống dính.
Áp dụng: “Chảo
không dính” hiện nay được các bà nội trợ sử dụng khá nhiều. Công dụng của chảo
đã làm hài lòng tất cả các đầu bếp khó tính. Nhưng ít ai hiểu được vì sao chảo
không dính lại ưu việt đến vậy. Giáo viên có thể nêu vấn đề này khi dạy về “Ứng
dụng flo” (Tiết 43 lớp 10 CB) hoặc bài “Dẫn suất halogen” (Tiết 55 lớp 11CB)
cũng như lưu ý học sinh về cách sử dụng chảo không dính.
VẤN ĐỀ 8: Vì sao rượu lại làm mất mùi tanh của
cá?
Cá tanh do trong
cá có trimetylamin (CH3)3N và đimetylamin (CH3)2NH và metyl amin CH3NH2 là những
chất có mùi khó ngửi.
Khi chiên cá ta
cho thêm một ít rượu có thể phá hủy được mùi tanh cá. Vì trimetylamin thường “lẫn
trốn” trong cá nên người ta khó trục nó ra. Nhưng trong rượu có cồn, cồn có thể
hòa tan trimetylamin nên có thể lôi được trimetylamin ra khỏi chổ ẩn. Khi chiên
cá ở nhiệt độ cao cả trimetylamin và cồn đều bay hơi hết, nên chỉ một lúc sau
mùi tanh cá sẽ bay đi hết.
Ngoài ra trong rượu
có một ít etylaxetat có mùi dễ chịu nên rượu có tác dụng thêm mùi thơm rất tốt.
Áp dụng: Đây là một
kinh nghiệm thường thấy khi chế biến thức ăn liên quan đến cá. Giáo viên cần giải
thích cho học sinh biết được cơ sở hóa học của kinh nghiệm trên. Từ đó giúp các
em thấy được những ứng dụng đời thường của hóa học nhằm tăng thêm niềm yêu
thích đối với môn hóa học. Giáo viên có thể đưa vào phần ứng dụng của ancol
trong bài “Ancol” (Tiết 56-57 lớp 11CB) hoặc phần tính chất chung của amin
trong bài “Amin” (Tiết 6 lớp 12).
VẤN ĐỀ 9: Các con số ghi trên chai
bia như 12o, 14o có ý nghĩa như thế nào?
Trên thị trường có
bày bán nhiều loại bia đóng chai. Trên chai có nhãn ghi 12o, 14o,…Có
người hiểu đó là số biểu thị hàm lượng rượu tinh khiết của bia. Thực ra hiểu
như vậy là không đúng.
Số ghi trên chai
bia không biểu thị lượng rượu tinh khiết ( độ rượu) mà biểu thị độ đường trong
bia.
Nguyên liệu chủ yếu
để nấu bia là đại mạch. Qua quá trình lên men, tinh bột đại mạch chuyển hóa
thành đường mạch nha( đó là Mantozơ - một đồng phân của đường saccarozơ).
Bấy giờ đại mạch biến thành dịch men, sau đó lên men biến thành bia.
Khi đại mạch lên
men sẽ cho lượng lớn đường mantozơ, chỉ có một phần mantozơ chuyển thành rượu,
phần mantozơ còn lại vẫn tồn tại trong bia. Vì vậy hàm lượng rượu trong bia khá
thấp. Độ dinh dưỡng của bia cao hay thấp có liên quan đến lượng đường.
Trong quá trình ủ
bia, nếu trong 100ml dịch lên men có 12g đường người ta biểu diễn độ đường lên
men là bia 12o. Do đó bia có độ 14o có giá trị dinh dưỡng
cao hơn bia 12o.
Áp dụng: Đây là vấn
đề mà mọi người rất thường nhầm giữa độ rượu và độ đường về những con số ghi
trên những chai bia. Giáo viên đặt câu hỏi trên sau khi dạy xong bài “Ancol”
(Tiết 56-57 lớp 11CB) hoặc bài “Saccarozơ” (Tiết 23 lớp 12).
VẤN ĐỀ10: Giải thích hiện tượng: “Khi các cầu thủ
đá banh bị đau nằm lăn lộn trên đất thì nhân viên y tế chỉ cần dùng bình thuốc
phun vào chỗ bị thương, sau đó cầu thủ bị thương đứng lên tiếp tục thi đấu”
Khi cầu thủ bị
thương, chỗ bị thương sẽ rất đau đớn. Người cán bộ y tế dùng phương pháp làm lạnh
cục bộ bằng cách phun chất làm lạnh tức thời trên chỗ bị thương. Chất làm lạnh ở
đây là etyl clorua C2H5Cl hay gọi là cloetan.
C2H5Cl là hợp chất hữu cơ có tos là 12,3oC. Ở nhiệt độ thường
khi tăng áp suất sẽ biến thành chất lỏng. Khi phun C2H5Cl lên chỗ bị thương,
các giọt etyl clorua tiếp xúc với da, nhiệt độ cơ thể sẽ làm etyl clorua sôi
lên và bốc hơi rất nhanh. Quá trình này thu nhiệt mạnh làm cho da bị lạnh đông
cục bộ và tê cứng. Vì vậy thần kinh cảm giác không truyền được đau lên đại não.
Nhờ đó cầu thủ không có cảm giác đau. Do sự đông cục bộ nên vết thương không bị
chảy máu.
Chú ý là cloetan chỉ tạm thời không làm cho cầu thủ cảm giác đau mà không
có tác dụng chữa trị vết thương.
Áp dụng: Đây là cảnh tượng thường thấy trong các trận đá banh. Mọi người cứ
nghĩ đó là một loại “ thuốc tiên” nhưng xét về phương diện hóa học đó chỉ là một
chất có đặc tính “ thu nhiệt mạnh” ở điều kiện thường. Giáo viên có thể kể cho
học sinh nghe về phần ứng dụng của dẫn xuất halogen trong bài “Dẫn suất
halogen” (Tiết 55 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 11: Vì sao ở các công
viên, khách sạn lớn thường xây dựng các giếng phun nước nhân tạo ?
Có lẽ ai cũng biết rằng xây dựng các giếng phun nước để làm đẹp cảnh quan
và mát mẻ. Nhưng xét về phương diện hóa học thì việc xây dựng các giếng phun nước
nhân tạo nhằm mục đích là sinh ra ion âm.
Người ta đã chứng minh, các ion âm sau khi được người hấp thụ có thể điều
tiết công năng hệ thần kinh trung ương, tăng sức miễn dịch, cảm giác dễ chịu,
tinh lực sung mãn. Các thí nghiệm lâm sàng cũng đã chứng minh nồng độ ion âm
trong không khí có hiệu quả chửa bệnh viêm phế quản, hen, đau đầu, mất ngủ,
suy nhược thần kinh,…
Vì sao ion âm trong không khí có lợi cho sức khỏe? Theo các chuyên gia y học
thì các tế bào gây bệnh thường tích điện âm, nếu tế bào trong cơ thể tích điện
âm, thì do ion âm cùng tên đẩy nhau nên vi trùng gây bệnh khó có thể tấn công tế
bào. Ngoài ra ion âm thông qua con đường hô hấp và phổi có thể xuyên qua phế
nang nên có tác dụng tổng hợp đối với cơ năng sinh lí bảo vệ sức khỏe.
Trong phòng có điều hòa không khí, phòng sử dụng máy tính thì nồng độ ion
âm trong không khí thì rất thấp, thậm chí gần bằng không. Sống và làm việc
trong điều kiện này trong một thời gian dài sẽ cảm thấy tức thở, tâm thần
bất an, dễ sinh bệnh tật.
Áp dụng: Giáo viên có thể kể cho học sinh nghe tác dụng của ion âm đối với
sức khỏe con người sau khi dạy xong phần “Ion âm” (Tiết 22 lớp 10 CB). Mục đích
giúp học sinh hiểu được việc xây dựng các giếng nước phun có ý nghĩa như thế
nào đến cảnh quan cũng như bảo vệ sức khỏe cộng đồng. Một vấn đề mà ít ai biết
hay không chú ý.
VẤN ĐỀ 12: Tại sao khi nấu
nước giếng ở một số vùng lâu ngày thấy xuất hiện lớp cặn ở đáy ấm? Cách tẩy
lớp cặn này như thế nào?
Trong tự nhiên, nước ở một số vùng là nước cứng tạm thời - là nước có
chứa Ca(HCO3)2 và Mg(HCO3)2. Khi nấu nước lâu ngày thì xảy ra phương trình hóa
học:
Ca(HCO3)2 → CaCO3↓ + CO2↑ + H2O
Mg(HCO3)2 → MgCO3↓ + CO2↑ + H2O
Do CaCO3 và MgCO3 là chất kết tủa nên lâu ngày sẽ đóng cặn.
Để tẩy lớp căn này thì dùng dung dịch CH3COOH 5% cho vào ấm đun sôi để nguội
khoảng một đêm rồi rửa sạch.
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên rồi dẫn dắt cho học sinh vào bài
bài giảng “Nước cứng” (Tiết 49 lớp 12) hoặc đưa vào phần cũng cố toàn bài giảng
để học sinh vận dụng kiến thức đẽ học để giải thích. Mục đích là cung cấp cho học
sinh một số vấn đề có trong đời sống từ đó có thể giải thích được bản chất
vấn đề nhằm kích thích sự hưng phấn trong học tập. Đây là hiện tượng mà học
sinh có thể quan sát và thực hiện được dễ dàng.
VẤN ĐỀ 13: Vì sao phèn
chua lại làm sạch nước ?
Phèn chua là muối sunfat kép của nhôm và kali ở dạng tinh thể ngậm nước 24
phân tử nước nên có công thức hóa học là K2SO4.Al2(SO4)3.24H2O.
Phèn chua không độc, có vị chát chua, ít tan trong nước lạnh nhưng tan rất
nhiều trong nước nóng. Khi cho phèn chua vào nước sẽ phân li ra ion Al3+. Chính
ion Al3+ này bị thủy phân theo phương trình:
Al3+ + 3H2O → Al(OH)3↓ + 3H+
Kết quả tạo ra Al(OH)3 là chất kết tủa dạng keo nên khi khuấy phèn chua vào
nước, nó kết dính các hạt đất nhỏ lơ lửng trong nước đục thành hạt đất to hơn,
nặng và chìm xuống làm trong nước. Nên trong dân gian có câu:
“ Anh đừng bắc bậc làm cao
Phèn chua em đánh nước nào cũng trong”
Phèn chua rất có ích cho việc xử lí nước đục ở các vùng lũ để có nước trong
dùng cho tắm, giặc. Vì cục phèn chua trong và sáng cho nên đông y còn gọi là
minh phàn
( minh là trong trắng, phàn là phèn).
Áp dụng: Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi dạy phần ứng dụng của “Muối
nhôm” (Tiết 51-52 lớp 12). Đây là một ứng dụng thông dụng của phèn trong cuộc sống.
Qua bài học học sinh biết được nguyên lí làm trong nước của phèn chua.
VẤN ĐỀ 14: Vì sao khi
mở bình nước ngọt có ga lại có nhiều bọt khí thoát ra ?
Nước ngọt không khác nước đường mấy chỉ có khác là có thêm khí cacbonic
CO2. Ở các nhà máy sản xuất nước ngọt, người ta dùng áp lực lớn để ép CO2 hòa
tan vào nước. Sau đó nạp vào bình và đóng kín lại thì thu được nước ngọt.
Khi bạn mở nắp bình, áp suất bên ngoài thấp nên CO2 lập tức bay vào không
khí. Vì vậy các bọt khí thoát ra giống như lúc ta đun nước sôi.
Về mùa hè người ta thường thích uống nước ngọt ướp lạnh. Khi ta uống nước
ngọt vào dạ dày, dạ dày và ruột không hề hấp thụ khí CO2. Ở trong dạ dày nhiệt
độ cao nên CO2 nhanh chóng theo đường miệng thoát ra ngoài, nhờ vậy nó mang đi
bớt một nhiệt lượng trong cơ thể làm cho người ta có cảm giác mát mẻ, dễ chịu. Ngoài
ra CO2 có tác dụng kích thích nhẹ thành dạ dày, tăng cường việc tiết dịch
vị, giúp nhiều cho tiêu hóa.
Áp dụng: Hiện tượng có nhiều bọt khí thoát ra từ bình nước ngọt có ga hay
chai bia thì chắc hẳn học sinh nào cũng biết. Nhưng khi giải thích khí đó là
khí gì và có công dụng ra sao thì không ít học sinh biết được. Giáo viên có thể
nêu câu hỏi trên khi dạy phần “Cacbon Đioxit” (tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 15: Vì sao không nên
đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc mà chỉ có thể đổ axit sunfuric đậm đặc vào nước
?
Trong bất kì quuyển sách hóa học nào cũng ghi câu sau để cảnh tỉnh bạn đọc:
“ Trong bất kì tình huống nào cũng không được đổ nước vào axit sunfuric đậm đặc,
mà chỉ được đổ từ từ axit sunfuric đặc vào nước”. Vì sao vậy ?
Khi axit sunfuric gặp nước thì lập tức sẽ có phản ứng hóa học xảy ra, đồng
thời sẽ tỏa ra một nhiệt lượng lớn. Axit sunfuric đặc giống như dầu và nặng hơn
trong nước. Nếu bạn cho nước vào axit, nước sẽ nổi trên bề mặt axit. Khi xảy ra
phản ứng hóa học, nước sôi mãnh liệt và bắn tung tóe gây nguy hiểm.
Trái lại khi bạn cho axit sunfuric vào nước thì tình hình sẽ khác: axit
sunfuric đặc nặng hơn nước, nếu cho từ từ axit vào nước, nó sẽ chìm xuống đáy
nước, sau đó phân bố đều trong toàn bộ dung dịch. Như vậy khi có phản ứng xảy
ra, nhiệt lượng sinh ra được phân bố đều trong dung dịch, nhiệt độ sẽ tăng từ từ
không làm cho nước sôi lên một cách quá nhanh.
Một chú ý thêm là khi pha loãng axit sunfuric bạn luôn luôn nhớ là “ phải đổ
từ từ ” axit vào nước và không nên pha trong các bình thủy tinh. Bởi vì thủy
tinh sẽ dễ vở khi tăng nhiệt độ khi pha.
Áp dụng: Vấn đề an toàn khi làm thí nghiệm được đặt lên hàng đầu trong những
tiết dạy có sử dụng hóa chất. Đặc biệt khi tiếp xúc với axit H2SO4 đặc thì rất
nguy hiểm. Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên cho học sinh trả lời về cách pha
loãng axit H2SO4 khi dạy phần tính chất vật lí của axit sunfuric đặc trong bài
“Axit sunfuric” (Tiết 55-56 lớp 10 CB).
VẤN ĐỀ 16: Vì sao axit
nitric HNO3 đặc lại phá thủng quần áo ?
Khi làm thí nghiệm hóa học, nếu quần áo bạn dính phải axit nitric HNO3 đặc
thường sẽ bị thủng một lỗ; khi dùng axit không đặc, nhìn bên ngoài thì không thấy
gì, nhưng sau khi phơi khô bạn sẽ thấy ngay lỗ thủng.
Quần áo chúng ta mặc thường ngày thường dệt bằng sợi bông, thành phần hóa học
của sợi bông là xenlulozơ. Xenlulozơ không tan trong nước và đa số các dung môi
khác nhưng dễ tan trong axit HNO3 đặc nên làm thủng quần áo.
Khi bị axit HNO3 loãng dính vào quần áo, tuy quần áo không bị thủng ngay,
nhưng khi quần áo khô, nồng độ axit HNO3 càng ngày càng đặc, cuối cùng sẽ làm
thủng quần áo. Ngoài ra, axit HNO3 loãng có thể có tác dụng hóa học với
xenlulozơ.
Áp dụng: Giáo viên có thể nêu vấn đề trên khi nói về tính chất hóa học của
axit nitric trong bài “Axit nitric”( Tiết 14-15 lớp 11CB) hoặc đặt câu hỏi sau
khi dạy xong bài “Xenlulozơ” ( Tiết 25 lớp 12) để nhắc nhở học sinh thật cẩn thận
khi tiếp xúc với axit HNO3 đặc.
VẤN ĐỀ 17: Chảo , môi, dao đều
được làm từ sắt. Vì sao chảo lại giòn ? môi lại dẻo ? Còn dao lại sắc ?
Chảo xào rau, môi và dao đều làm từ sắt. Thế nhưng loại sắt để chế tạo
chúng lại không giống nhau.
Sắt dùng để làm chảo là “gang”. Gang có tính chất là rất giòn. Trong công
nghiệp, người ta nấu chảy lỏng gang để đổ vào khuôn, gọi là “đúc gang”
Môi múc canh được chế tạo bằng “thép non”. Thép non không giòn như gang. Người
ta thường dùng búa để rèn, biến thép thành các đồ vật có hình dạng khác nhau.
Dao thái rau không chế tạo từ thép non mà bằng “thép”. Thép vừa dẻo vừa dát
mỏng được, có thể rèn, cắt gọt nên rất sắc.
Áp dụng: Vấn đề từ sắt có thể điều chế những vật dụng có chức năng khác
nhau được sử dụng rất rộng rãi trong cuộc sống. Giải thích được điều này đòi hỏi
học sinh phải biết được tính chất của sắt cũng như hợp kim của nó. Giáo viên có thể đề cập trong bài “Hợp kim của sắt” (Tiết 61-62-63 lớp
12).
VẤN ĐỀ 18: Giải thích hiện tượng: “ Một nồi nhôm mới
mua về sáng lấp lánh bạc, chỉ cần dùng nấu nước sôi, bên trong nồi nhôm, chổ có
nước biến thành màu xám đen ?”
Mới xem thì có vẻ
lạ vì nồi nhôm mới, ngoài nước ra thì không tiếp xúc với gì khác, chẳng lẽ nước
lại làm cho nồi đen ?
Bình thường trông
bên ngoài nước không có vấn đề gì, thực tế trong nước có hòa tan nhiều chất,
thường gặp nhất là các muối canxi, magiê và sắt. Các nguồn nước có thể chứa lượng
muối sắt ít nhiều khác nhau, loại nước chứa nhiều sắt “ là thủ phạm” làm cho nồi
nhôm có màu đen.
Vì nhôm có tính khử
mạnh hơn sắt nên nhôm sẻ đẩy sắt ra khỏi muối của nó và thay thế ion sắt, còn
ion sắt bị khử sẽ bám vào bề mặt nhôm, nồi nhôm sẽ bị đen:
Để hoàn thành được
điều trên phải có 3 điều kiện:
* Lượng muối sắt
trong nước phải đủ lớn
* Thời gian đun
sôi phải đủ lâu
* Nồi nhôm phải là
nồi mới
Áp dụng: Giáo viên
có thể nêu hiện tượng trên để dẫn nhập vào bài giảng “Nhôm” ( Tiết 51 lớp 12).
Sau đó học sinh dựa vào những kiến thức đã học để giải thích hiện tượng nồi
nhôm bị đen.
VẤN ĐỀ 19: Tại sao không dùng bình thủy tinh đựng dung
dịch HF ?
Tuy dung dịch axit
HF là một axit yếu nhưng nó có khả năng đặc biệt là ăn mòn thủy tinh. Do thành
phần chủ yếu của thủy tinh là silic đioxit SiO2 nên khi cho dung dịch HF và thì
có phản ứng xảy ra:
SiO2 + 4HF
→ SiF4↑ + 2H2O
Áp dụng: Đây là phần
kiến thức mà bất kì học sinh nào cũng phải biết được sau khi học bài Flo và hợp
chất của nó. Học sinh biết giải thích và vận dụng trong thực tiễn tránh
việc dùng bình thủy tinh đựng dung dịch HF. Giáo viên có thể hỏi học sinh sau
khi dạy xong bài dạy “Flo” (Tiết 43 lớp 10 CB) hay “Hợp chất silic”(Tiết 25 lớp
11 CB).
VẤN ĐỀ 20: Làm thế nào có thể khắc được thủy
tinh ?
Muốn khắc thủy
tinh người ta nhúng thủy tinh vào sáp nóng chảy, nhấc ra cho nguội, dùng vật nhọn
khắc hình ảnh cần khắc nhờ lớp sáp mất đi, rồi nhỏ dung dịch HF vào thì thủy
tinh sẽ bị ăn mòn ở những chổ lớp sáp bị cào đi
SiO2 + 4HF
→ SiF4↑ + 2H2O
Nếu không có dung
dịch HF thì thay bằng dung dịch H2SO4 đặc và bột CaF2. Làm tương tự như trên
nhưng ta cho bột CaF2 vào chổ cần khắc,sau đó cho thêm H2SO4 đặc vào và lấy tấm
kính khác đặt trên chổ cần khắc. Sau một thời gian, thủy tinh cũng sẽ bị ăn mòn
ở những nơi cạo sáp.
CaF2 +
2H2SO4 → CaSO4 + 2HF↑ ( dùng tấm kính che lại)
Sau đó
SiO2 + 4HF → SiF4↑ + 2H2O
Áp dụng: Đây là một
vấn đề rất thực tế khi mà nghề khắc thủy tinh đang phát triển ở nước ta. Sau
bài học học sinh không những biết được phương pháp khắc thủy tinh mà còn có thể
giải thích được vấn đề này. Thậm chí đây là cơ sở cho việc học nghề, khơi gợi
niềm đam mê học tập, học sinh có thể tự làm thí nghiệm này trong tiết thực
hành. Giáo viên có thể lồng vào bài “Flo”(Tiết 43 lớp 10 CB) khi dạy phần
tính chất hóa học hoặc giáo viên nêu vấn đề trên để dẫn dắt vào bài giảng “Hợp
chất silic”(Tiết 25 lớp 11 CB).
VẤN ĐỀ 21: Vì sao gạo nếp lại dẻo ?
Tinh bột là hỗn hợp
của hai thành phần: amilozơ và amilopectin. Hai loại này thường không tách rời
nhau được. Trong mỗi hạt tinh bột, amilopectin là vỏ bọc nhân amilozơ. Amilozơ
tan được trong nước còn amilopectin hầu như không tan, trong nước nóng
amilopectin trương lên tạo thành hồ. Tính chất này quyết định đến tính dẻo của
hạt có tinh bột.
Trong mỗi hạt tinh
bột, lượng amilopectin chiếm 80%, amilozơ chiếm khoảng 20% nên cơm gạo tẻ, ngô
tẻ, bánh mì thường có độ dẻo bình thường. Tinh bột trong gạo nếp, ngô nếp chứa
lượng amilopectin rất cao, khoảng 90% làm cho cơm nếp, xôi nếp,… rất dẻo, dẻo đến
mức dính.
Áp dụng: Vấn đề
trên là hiển nhiên trong đời sống mà bất kì ai cũng biết hiện tượng này. Vấn đề
có thể đưa vào trong khi dạy bài “Tinh bột”( Tiết 24 lớp 12) với mục đích giải
thích tại sao gạo nếp lại dẻo. Giáo viên có thể trình bày vấn đề này trong vài
phút khi đặt câu hỏi: Vì sao nếp lại dẻo? rồi dẫn dắt vào bài mới hoặc
giáo viên xen vào bài giảng khi trình bày phần cấu tạo phân tử tinh bột.
VẤN ĐỀ 22: “Thuốc chuột” là chất gì mà có thể làm chuột
chết ?
Tại sao những con
chuột sau khi ăn thuốc chuột lại đi tìm nước uống. Vậy thuốc chuột là gì? Cái
gì đã làm cho chuột chết? Nếu sau khi ăn thuốc mà không có nước uống thì chuột
chết mau hay lâu hơn ?
Thành phần thuốc
chuột là kẽm photphua Zn3P2. Sau khi ăn, Zn3P2 bị thủy phân rất mạnh, hàm
lượng nước trong cơ thể chuột giảm, nó khát và đi tìm nước:
Zn3P2 +
6H2O → 3Zn(OH)2 + 2PH3↑
Chính PH3
(photphin) đã giết chết chuột.
Càng nhiều nước
đưa vào cơ thể chuột → PH3 thoát ra nhiều → chuột càng nhanh chết.
Nếu không có nước chuột sẽ chết lâu hơn.
Áp dụng: Vấn đề diệt
chuột đang được mọi người quan tâm vì chuột là con vật mang nhiều mầm bệnh truyền
nhiễm cho con người và hay phá hoại mùa màng. “Thuốc chuột” đang được dùng với
mục đích trên. Nhưng đây là loại thuốc rất độc nên dể ảnh hưởng đến sức khỏe
con người, vì vậy giáo viên nên hướng dẫn cho học sinh biết cơ chế diệt chuột của
thuốc chuột nhằm biết cách sử dụng an toàn. Giáo viên có thể đề cập vấn đề này
trong phần nêu ứng dụng của photpho hoặc khi lấy ví dụ để chứng minh tính oxi
hóa của photpho thì giáo viên nên viết phương trình photpho tác dụng của với kẽm,
sau đó nêu ứng dụng của sản phẩm ( Zn3P2) trong bài “Photpho” ( Tiết 16 lớp
11CB).
VẤN ĐỀ 23: Vì sao khi cơm bị khê người ta thường cho
vào nồi cơm một mẩu than củi ?
Do than củi xốp có
tính hấp phụ nên hấp phụ mùi khét của cơm làm cho cơm đở mùi khê.
Áp dụng: Đây là mẹo
vặt thường được dùng khi không may cơm bị khê. Giáo viên có thể nêu hiện tượng
trên khi dạy phần tính chất vật lí hoặc trong phần nêu ứng dụng của cacbon
trong bài “Cacbon”( tiết 23 lớp 11CB)cho học sinh suy nghĩ rồi sau đó giáo viên
nhận xét và bổ sung.
VẤN ĐỀ 24: Vì sao ta không thể dập tắt đám cháy của
các kim loại mạnh: K, Na, Mg,… bằng khí CO2
Do các kim loại
trên có tính khử mạnh nên vẫn cháy được trong khí quyển CO2. Thí dụ :
2Mg +
CO2 → 2MgO + C
Cacbon sinh ra lại
tiếp tục cháy:
C + O2
→ CO2
Áp dụng: Để dập tắt
các đám cháy thông thường người ta thường dùng khí CO2. Tuy nhiên một số đám
cháy có các kim loại mạnh thì CO2 không những không dập tắt mà làm cho lửa
cháy thêm gây thiệt hại nghiêm trọng. Đây là phần nội dung mà giáo viên cần
cung cấp cho học sinh biết khi đề cập đến khả năng không duy trì sự cháy của
khí CO2 ở phần “Cacbon đioxit” (Tiết 24 lớp 11CB) biết được để vận dụng trong
cuộc sống.
VẤN ĐỀ 25:Vì sao ta hay dùng bạc để “đánh gió” khi bị
bệnh cảm ?
Khi bị bệnh cảm,
trong cơ thể con người sẽ tích tụ một lượng khí H2S tương đối cao. Chính lượng
H2S sẽ làm cho cơ thể mệt mỏi. Khi ta dùng Ag để đánh gió thì Ag sẽ tác dụng với
khí H2S. Do đó, lượng H2S trong cơ thể giảm và dần sẽ hết bệnh. Miếng Ag sau
khi đánh gió sẽ có màu đen xám:
4Ag +
2H2S + O2 → 2Ag2S↓ + 2H2O
(đen)
Áp dụng: Hiện tượng
“đánh gió” đã được ông bà ta sử dụng từ rất xa xưa cho đến tận bây giờ để chữa
bệnh cảm. Cách làm này rất có cơ sở khoa học mà mọi người cần phải biết. Giáo
viên có thể nêu hiện tượng trên khi dạy phần trạng thái tự nhiên của hiđro
sunfua ( Tiết 53 lớp 10 CB) cho học sinh biết cách chữa bệnh “dân gian” này.
VẤN ĐỀ 26: Vì sao “bánh bao” thường rất xốp và có mùi
khai ?
Khi làm bánh bao
người ta thường cho ít bột nở NH4HCO3 vào bột mì. Khi nướng bánh, NH4HCO3 phân
hủy thành các chất khí và hơi thoát ra nên làm cho bánh xốp và nở.
NH4HCO3(r) →
NH3↑ + CO2↑ + H2O↑
Do khí NH3 sinh ra
nên làm cho bánh bao có mùi khai.
Áp dụng: Hiện nay
thông thường bánh bao vẫn còn trộn bột nở NH4HCO3 nên dẫn đến có mùi khai mà
không phải học sinh nào cũng giải thích được. Giáo viên có thể đề cập vấn đề
trên khi trình bày tính chất kém bền nhiệt của muối amoni trong bài “Muối
amoni” ( Tiết 12-13 lớp 11 CB).
VẤN ĐỀ 27: Vì sao trong một ngày hoa phù dung
có thể đổi màu tới 3 lần ?
Hoa phù dung đổi
màu 3 lần trong ngày. Buổi sáng màu trắng, buổi trưa màu phớt hồng, buổi chiều
màu hồng đậm hơn.
Loài hoa, trước
sau chỉ biến đổi thay nhau giữa các màu trắng, hồng, vàng, da cam, đỏ. Đó là sự
thay đổi của chất caroten có trong thực vật.
Caroten là một loại
sắc tố thường thấy trong mọi đóa hoa. Trong sữa động vật, trong chất béo cũng
có sắc tố này nhưng nhiều hơn cả là trong của cà rốt ( chất màu vàng da cam).
Caroten là một hiđrocacbon có công thức phân tử C40H56.
Áp dụng: Đây là một
hiện tượng thường gặp trong tự nhiên. Giáo viên đưa vấn đề này vào trong bài giảng
“Tecpen” ( Tiết 57 lớp 11NC) để giới thiệu cho học sinh biết thêm về nguồn
tecpen thiên nhiên nhằm kích thích tính tò mò ham hiểu biết của học sinh.
VẤN ĐỀ 28: Loại đá có thể… ăn
Khi bạn bị bệnh
đau dạ dày cần phải chụp X quang. Trước khi chụp phim thì bác sỹ thường cho bạn
ăn một thứ thức ăn ở dạng hồ trắng. Thành phần chủ yếu của thức ăn là một
loại đá BaSO4.
Nguyên do là thầy
thuốc chẩn đoán bệnh đau dạ dày cho người bệnh thường phải chụp X quang. Chụp X
quang đối với dạ dày không dễ như với các bộ phận xương cốt, bởi vì tỷ trọng của
xương lớn, tia X khó xuyên qua, trên phim chụp có thể lưu lại những hình ảnh đậm
còn tỷ trọng của dạ dày và các tổ chức xung quanh tương đối mềm nên ảnh chụp
không rõ nét.
Khi bệnh nhân ăn
xong, BaSO4 đã vào tới dạ dày thì tiến hành chụp X quang bởi vì BaSO4 ngăn cản
tia X rất tốt. Từ đó Thầy thuốc có thể chẩn đoán chính xác tình trạng dạ dày.
Áp dụng: Giáo viên
có thể đưa vào phần bài giảng “Muối sunfat” ( Tiết 55-56 lớp 10 CB) khi kể cho
học sinh biết thêm một số ứng dụng của muối sunfat.
VẤN ĐỀ 29: Vì sao có thể xác định tuổi thọ của
một mảnh gỗ ?
Các nhà khảo cổ
thường dùng “ đồng hồ cacbon” để xác định xem tuổi thọ của các mãnh gổ là bao
nhiêu.
Hàm lượng
trong khí quyển luôn được cân bằng không đổi. trong khí quyển kết
hợp với oxi mà tồn tại dưới dạng khí . Thông qua quá trình quang hợp,
khí này bị thực vật hấp thụ tạo thành tinh bột, xenlulozơ. Sau khi
động vật ăn thực vật, lại chuyển vào cơ thể động vật. Tỷ lệ giữa (
có tính phóng xạ) và ( một đồng vị ổn định) ở trong khí quyển cũng như ở
trong thực vật, động vật đều bằng nhau.Chỉ sau khi động thực vật chết đi, chúng
mới đình chỉ sự chuyển đổi vật chất với thế giới bên ngoài, sự cung ứng
cũng sẽ bị ngừng. Do đó không ngừng phát ra tia xạ nên hàm lượng của
sẽ giảm dần. Quy luật của sự giảm đó là: “Cứ qua quãng thời gian 5730
năm, thì lượng sẽ giảm đi một nửa”. Điều này gọi là “chu kì bán
rã” của chất đồng vị phóng xạ.
Do vậy nếu muốn biết
niên đại của miếng gỗ cổ thì chỉ cần đo hàm lượng của mãnh gỗ đó là có
thể tính toán ra.
Áp dụng: Đây là một
trong những ứng dụng quan trọng của các đồng vị phóng xạ. Giáo viên có thể cung
cấp cho học sinh biết cách tính tuổi thọ cây cối dựa vào đồng vị trong
bài “Đồng vị” ( tiết 4-5 lớp 10 CB).
VẤN ĐỀ 30: Tại sao nước máy thường dùng ở các thành phố
lại có mùi khí clo ?
Trong hệ thống nước
máy ở thành phố, người ta cho vào một lượng nhỏ khí clo vào để có tác dụng diệt
khuẩn. Một phần khí clo gây mùi và một phần tác dụng với nước:
Axit hipoclorơ
HClO sinh ra có tính oxi hóa rất mạnh nên có tác dụng khử trùng, sát khuẩn nước.
Áp dụng: Vấn đề
này đang được sử dụng làm sạch nước hiện nay ở các nhà máy nước cung cấp nước
cho các thành phố, thị xã, thị trấn. Giải thích được hiện tượng này giúp
học sinh hiểu được vai trò và ứng dụng của clo trong cuộc sống mà học sinh có
thể kiểm nghiệm thật dể dàng. Giáo viên có thể đặt câu hỏi cho học sinh suy
nghĩ để trả lời trong phần ứng dụng của clo trong bài “Clo”( Tiết 38 lớp 10
CB).
VẤN ĐỀ 31: “Ma trơi” là gì? Ma trơi thường xuất hiện ở
đâu ?
Trong xương của động
vật luôn có chứa một hàm lượng photpho. Khi cơ thể động vật chết đi, nó sẽ phân
hủy một phần thành photphin PH3 và lẩn một ít điphotphin P2H4.
Photphin không tự
bốc cháy ở nhiệt độ thường. Khi đun nóng đến 150oC thì nó mới cháy được. Còn
điphotphin P2H4 thì tự bốc cháy trong không khí và tỏa nhiệt. Chính lượng nhiệt
tỏa ra trong quá trình này làm cho photphin bốc cháy:
2PH3 +
4O2 → P2O5 + 3H2O
Quá trình trên xảy
ra cả ngày lẫn đêm nhưng do ban ngày có các tia sáng của mặt trời nên ta không
quan sát rõ như vào ban đêm.
Hiện tượng ma trơi
chỉ là một quá trình hóa học xảy ra trong tự nhiên. Thường gặp ma trơi ở các
nghĩa địa vào ban đêm.
Áp dụng: Vấn đề
này có thể được đề cập ở trong bài “Photpho” (Tiết 16 lớp 11CB) để giải thích
hiện tượng “ma trơi”. Đây là một hiện tượng tự nhiên chứ không phải là một hiện
tượng “ thần bí ” nào đó, tránh tình trạng mê tín dị đoan, làm cho cuộc sống
thêm lành mạnh.
VẤN ĐỀ 32: Tại sao phải ăn muối iot ?
Trong cơ thể con
người có tồn tại một lượng iot tập trung ở tuyến giáp trạng. Ở người trưởng
thành lượng iot này khoảng 20-50mg.
Hàng ngày ta phải
bổ sung lượng iot cần thiết cho cơ thể bằng cách ăn muối iot. Iôt có trong muối
ăn dạng KI và KIO3. Nếu lượng iot không cung cấp đủ thì sẽ dẫn đến tuyến giáp
trạng sưng to thành bướu cổ, nặng hơn là đần độn, vô sinh và các chứng bệnh
khác.
Áp dụng: Giáo viên
có thể đặt câu hỏi trên khi kết thúc bài giảng “Iot” (Tiết 44 lớp 10 CB) nhằm
giúp cho học sinh hiểu được ích lợi của việc ăn muối iot và tuyên truyền cho cộng
đồng.
VẤN ĐỀ 33: Tại sao khi ăn cơm nhai kỹ sẽ thấy vị
ngọt ?
Cơm chứa một lượng
lớn tinh bột, khi ăn cơm trong tuyến nước bọt của người có các enzim. Khi nhai
kỹ cơm trong nước bọt sẽ xảy ra sự thủy phân một phần tinh bột thành
mantozơ và glucozơ nên có vị ngọt:
Áp dụng: Giáo viên
có thể đề cặp vấn đề trên ở phần nội dung phản ứng thủy phân của tinh bột trong
bài “Tinh bột” (Tiết 24 lớp 12) nhằm cung cấp cho học sinh kiến thức cơ bản của
sự chuyển hóa tinh bột trong khi ăn. Học sinh cũng có thể kiểm nghiệm được
trong khi ăn.
VẤN ĐỀ 34: Làm thế nào để biết dưới giếng
có khí độc CO hoặc khí thiên nhiên CH4 không có oxi để tránh khi xuống giếng bị
chết ngạt ?
Trong các giếng
sâu ở một số vùng đồng bằng thường có nhiều khí độc CO và CH4 và thiếu oxi. Vì
một lí do nào đó mà ta xuống giếng thì rất nguy hiểm. Đã có rất nhiều trường hợp
tử vong do trèo xuống giếng gặp nhiều khí độc và chết ngạt do thiếu oxi.
Điều tốt nhất là tránh phải xuống giếng, nếu có xuống thì nên mang theo bình thở
oxi. Trước khi xuống giếng cần thử xem trong giếng có nhiều khí độc hay không bằng
cách cột một con vật như gà, vịt rồi thả xuống giếng. Nếu gà, vịt chết thì chứng
tỏ dưới giếng có nhiều khí độc.
Áp dụng: Đây là hiện
tượng hay xảy ra vào mùa khô. Mọi người không hề biết được sự nguy hiểm khi xuống
giếng sâu. Thực tế là đã có nhiều cái chết thương tâm xảy ra mà báo đài đã nêu
trong thời gian qua. Giáo viên cần đưa vào bài giảng để nhắc nhở học sinh và mọi
người. Vấn đề này có thể xen vào bài “Hợp chất của cacbon”(Tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 35: Hiện tượng tạo hang động và thạch
nhũ ở vườn quốc gia Phong Nha - Kẽ Bàng với những hình dạng phong phú đa dạng
được hình thành như thế nào ?
Ở các vùng núi đá
vôi, thành phần chủ yếu là CaCO3. Khi trời mưa trong không khí có CO2 tạo thành
môi trường axit nên làm tan được đá vôi. Những giọt mưa rơi xuống sẽ bào
mòn đá thành những hình dạng đa dạng:
CaCO3 + CO2 + H2O
<-> Ca(HCO3)2
Theo thời gian tạo
thành các hang động. Khi nước có chứa Ca(HCO3)2 ở đá thay đổi về nhiệt độ và áp
suất nên khi giọt nước nhỏ từ từ có cân bằng:
Ca(HCO3)2
<-> CaCO3 + CO2 + H2O
Như vậy lớp CaCO3
dần dần lưu lại ngày càng nhiều, dày tạo thành những hình thù đa dạng.
Áp dụng: Đây là một
hiện tượng thường gặp trong các hang động núi đá, cụ thể là Phong Nha Kẽ Bàng (
Quảng Bình). Học sinh sẽ biết được quá trình hình thành các hang động với những
hình dạng phong phú là do thiên nhiên kiến tạo dựa trên các quá trình biến đổi
hóa học. Dựa vào tính chất của Canxi cacbonat giáo viên có thể đề cập vấn đề
trên ở bài “Hợp chất của canxi”(tiết 48 lớp 12).
VẤN ĐỀ 36: Ca dao Việt Nam có câu:
“Lúa chim lấp ló ngoài bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên”
Mang ý nghĩa hóa học gì ?
Câu ca dao có
nghĩa là: Khi vụ lúa chiêm đang trổ đồng mà có trận mưa rào kèm theo sấm chớp
thì rất tốt và cho năng suất cao. Vì sao vậy ?
Do trong không khí
có khoảng 80% Nitơ và 20 % oxi. Khi có sấm chớp( tia lửa điện) thì:
2N2 +
O2 → 2NO
Sau đó:
2NO +
O2 → 2NO2
Khí NO2 hòa tan
trong nước: 4NO2 + O2 + H2O → 4HNO3
HNO3 →
H+ + NO3-
(Đạm)
Nhờ có sấm chớp ở
các cơn mưa giông, mỗi năm trung bình mỗi mẫu đất được cung cấp khoảng
6-7 kg nitơ.
Áp dụng: Đây là một
câu ca dao mang ý nghĩa thực tiễn rất thường gặp trong đời sống. Đây quả là một
kinh nghiệm được ông cha ta rút ra qua những tháng năm canh tác nông nghiệp. Học
sinh cũng dễ dàng quan sát để kiểm nghiệm và giải thích được một cách khoa học
về vấn đề trên. Giáo viên có thể đặt câu hỏi trên khi trình bày phần chu trình
của nitơ trong tự nhiên ở bài giảng “Axit HNO3” (Tiết 14-15) hoặc đề cập trong
bài “Phân đạm” (Tiết 18 lớp 11 CB).
VẤN ĐỀ 37: Vì sao ngày nay không dùng
xăng pha chì ?
Xăng pha chì có
nghĩa là trong xăng có pha thêm một ít Tetraetyl chì (C2H5)4Pb, có tác dụng làm
tăng khả năng chịu nén của nhiên liệu dẫn đến tiết kiệm khoảng 30% lượng xăng sử
dụng. Nhưng khi cháy trong động cơ thì chì oxit sinh ra sẽ bám vào các ống xả,
thành xilanh, nên thực tế còn trộn vào xăng chất 1,2 - đibrometan CH2Br – CH2Br
để chì oxit chuyển thành muối PbBr2 dể bay hơi thoát ra khỏi xilanh, ống xả và
thải vào không khí gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng nghiêm trọng tới sức khỏe
con người.
Từ những điều gây
hại trên mà hiện nay ở nước ta không còn dùng xăng pha chì nửa.
Áp dụng: Hiện nay
nhà nước ta nghiêm cấm các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu sử dụng xăng pha
chì. Để hiểu được vì sao thì không ít người hiểu được vấn đề này. Thông qua nội
dung “Dầu mỏ”( Tiết 53 lớp 11CB) giáo viên có thể đặt câu hỏi này cho học sinh
thảo luận rồi giải thích cho học sinh biết được tác hại của việc pha chì vào
xăng nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường.
VẤN ĐỀ 38: Câu tục ngữ: “ Nước chảy đá mòn” mang
ý nghĩa hóa học gì?
Thành phần chủ yếu
của đá là CaCO3. Trong không khí có khí CO2 nên nước hòa tan một phần tạo thành
axit H2CO3. Do đó xảy ra phản ứng hóa học :
CaCO3 + CO2 + H2O
<-> Ca(HCO3)2
Khi nước chảy cuốn
theo Ca(HCO3)2, theo nguyên lí dịch chuyển cân bằng thì cân bằng (*) sẽ chuyển
dịch theo phía phải. Kết quả là sau một thời gian nước đã làm cho đá bị
bào mòn dần.
Áp dụng: Hiện tượng
này thường thấy ở những phiến đá có dòng nước chảy qua. Do hiện tượng xảy ra chậm
nên phải thật sự chú ý chúng ta mới nhận ra điều này. Hiểu được điều này giúp học
sinh biết được dụng ý khoa học của câu tục ngữ có từ xa xưa và làm cho hóa học
trở nên rất gần gũi hơn trong cuộc sống đời thường. Giáo viên có thể nêu vấn đề
này ở phần “Muối cacbonat ”(Tiết 24 lớp 11 CB) hoặc “Canxi cacbonat”
VẤN ĐỀ 39: Vì sao trước khi luộc rau muống cần
cho thêm một ít muối ăn NaCl ?
Dưới áp suất khí
quyển 1atm thì nước sôi ở 100oC. Nếu cho thêm một ít muối ăn vào nước
thì nhiệt độ sôi cao hơn 100oC. Khi đó luộc rau sẽ mau mềm, xanh và
chín nhanh hơn là luộc bằng nước không. Thời gian rau chín nhanh nên ít bị mất
vitamin.
Áp dụng: Đây là một
vấn đề rất quen thuộc mà nếu không chú ý thì học sinh sẽ không biết. Học sinh dễ
dàng làm thí nghiệm ngay khi nấu ăn. Từ đó góp phần tạo nên kinh nghiệm nấu ăn
cho học sinh, rất thiết thực trong cuộc sống. Giáo viên có thể nêu vấn đề trên
sau khi kết thúc bài “Clo” (Tiết 38 lớp 10CB) hoặc bài “Các hợp chất của natri”
(Tiết 46 lớp 12).
VẤN ĐỀ 40: Vì sao cồn có khả năng sát khuẩn
?
Cồn là dung dịch
rượu etylic (C2H5OH) có khả năng thẩm thấu cao, có thể xuyên qua màng tế bào đi
sâu vào bên trong gây đông tụ protein làm cho tế bào chết. Thực tế là cồn 75o
có khả năng sát trùng là cao nhất. Nếu cồn lớn hơn 75o thì nồng
độ cồn quá cao làm cho protein trên bề mặt vi khuẩn đông cứng nhanh hình thành
lớp vỏ cứng ngăn không cho cồn thắm vào bên trong nên vi khuẩn không chết. Nếu
nồng độ nhỏ hơn 75o thì hiệu quả sát trùng kém.
Áp dụng: Trong y tế
việc dùng cồn để sát khuẩn trước khi tiêm và rửa vết thương trở nên thông dụng.
Nhưng để giải thích được vì sao cồn có khả năng sát khuẩn thì không phải ai
cũng giải thích được. Trong bài giảng, nếu học sinh được giáo viên giải thích
thì sẽ rất hứng thú vì hóa học có những ứng dụng rất thực tế và sẽ thêm yêu hóa
học. Giáo viên có thể đề cập ở phần ứng dụng trong bài “Ancol” (Tiết 56-57 lớp
11CB).
VẤN ĐỀ 41: Sherlock Homes đã phát hiện
cách lấy vân tay của tội phạm lưu trên đồ vật ở hiện trường như thế nào chỉ sau
ít phút thí nghiệm ?
Lấy một trang giấy
sạch, ấn một đầu ngón tay lên trên mặt giấy rồi nhấc ra, sau đó đem phần giấy
có dấu vân tay đặt đối diện với mặt ống nghiệm có chứa cồn iốt và dùng đèn cồn
để đun nóng ở phần đáy ống nghiệm. Khi xuất hiện luồng khí màu tím bốc ra từ ống
nghiệm, bạn sẽ thấy trên phần giấy trắng( bình thường không nhận ra dấu vết gì)
dần dần hiện lên dấu vân tay màu nâu, rõ đến từng nét. Nếu bạn ấn đầu ngón tay
lên một trang giấy trắng rồi cất đi, mấy tháng sau mới đem thực nghiệm như trên
thì dấu vân tay vẫn hiện ra rõ ràng.
Trên đầu ngón tay
chúng ta có dầu béo, dầu khoáng và mồ hôi. Khi ấn ngón tay lên mặt giấy thì những
thứ đó sẽ lưu lại trên mặt giấy, tuy mắt thường rất khó nhận ra.
Khi đem tờ giấy có
vân tay đặt đối diện với mặt miệng ống nghiệm chứa cồn iôt thì do bị đun nóng
iôt “thăng hoa” bốc lên thành khí màu tím ( chú ý là khí iôt rất độc), mà dầu
béo, dầu khoáng và mồ hôi là các dung môi hữu cơ mà khí iôt dễ tan vào chúng, tạo
thành màu nâu trên các vân tay lưu lại. Thế là vân tay hiện ra.
Áp dụng: Đây là một
ứng dụng quan trọng của iot trong ngành điều tra tội phạm. Giáo viên có thể đề
cập ở phần tính chất vật lí trong bài “Iot” (Tiết 44 lớp 10 CB) hoặc bài “Lipit
(chất béo)”( Tiết 18-19 lớp 12).
VẤN ĐỀ 42: Vì sao ở các cơ sở đóng tàu thường gắn
một miếng kim loại Kẽm Zn ở phía sau đuôi tàu ?
Thân tàu biển được
chế tạo bằng gang thép. Gang thép là hợp kim của sắt, cacbon và một số nguyên tố
khác. Đi lại trên biển, thân tàu tiếp xúc thường xuyên với nước biển là dung dịch
chất điện li nên sắt bị ăn mòn, gây hư hỏng.
Để bảo vệ thân tàu
thường áp dụng biện pháp sơn nhằm không cho gang thép của thân tàu tiếp xúc trực
tiếp với nước biển. Nhưng ở phía đuôi tàu, do tác động của chân vịt, nước bị
khuấy động mãnh liệt nên biện pháp sơn là chưa đủ. Do đó mà phải gắn tấm kẽm
vào đuôi tàu.
Khi đó sẽ xảy ra
quá trình ăn mòn điện hóa. Kẽm là kim loại hoạt động hơn sắt nên bị ăn mòn, còn
sắt thì không bị mất mát gì.
Sau một thời gian
miếng kẽm bị ăn mòn thì sẽ được thay thế theo định kì. Việc này vừa đở tốn kém
hơn nhiều so với sửa chữa thân tàu.
Áp dụng: Sự ăn mòn
kim loại đặc biệt là ăn mòn điện hóa hàng năm gây tổn thất thật nghiêm trọng
cho nền kinh tế quốc dân. Con người luôn cố gắng tìm ra những phương pháp chống
ăn mòn kim loại. Phương pháp điện hóa ( dùng Zn) để bảo vệ vỏ tàu biển như trên
rất hiệu quả và được ứng dụng rất rộng rãi. Giáo viên có thể nêu vấn đề sau khi
dạy xong bài “Ăn mòn kim loại”( Tiết 39-40 lớp 12) để cho học sinh giải thích
nhằm giúp cho học sinh biết cách vận dụng kiến thức để giải thích hiện tượng
trong cuộc sống.
VẤN ĐỀ 43: “Hiệu ứng nhà kính” là gì ?
Khí cacbonic CO2
trong khí quyển chỉ hấp thụ một phần những tia hồng ngoại ( tức là những bức xạ
nhiệt) của Mặt Trời và để cho những tia có bước sóng từ 50000 đến 100000 Å đi
qua dễ dàng đến mặt đất. Nhưng những bức xạ nhiệt phát ra ngược lại từ mặt đất
có bước sóng trên 140000 Å bị khí CO2 hấp thụ mạnh và phát trở lại Trái Đất làm
cho Trái Đất ấm lên. Theo tính toán của các nhà khoa học thì nếu hàm lượng CO2
trong khí quyển tăng lên gấp đôi so với hiện tại thì nhiệt độ ở mặt đất tăng
lên 4oC.
Về mặt hấp thụ bức
xạ, lớp CO2 ở trong khí quyển tương đương với lớp thủy tinh của các nhà kính
dùng để trồng cây, trồng hoa ở xứ lạnh. Do đó hiện tượng làm cho Trái Đất ấm
lên bởi khí CO2 được gọi là hiệu ứng nhà kính.
Áp dụng: Ngày nay
hiện tượng “Hiệu ứng nhà kính” trở thành một vấn đề có ảnh hưởng mang tính toàn
cầu. Mục đích vấn đề giúp học sinh biết được nguyên nhân và tác hại của hiệu ứng
nhà kính nhằm nâng cao ý thức bảo vệ môi trường. Giáo viên có thể đặt vấn đề
này khi dạy phần Cacbon đioxit (Tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 44: “Nước đá khô” là gì và có công dụng
như thế nào ?
Nước đá khô (hay
còn gọi là tuyết cacbonic) được điều chế từ khí CO2 hoặc CO2 hóa lỏng. Đây là
các tác nhân lạnh ở thể rắn cung cấp hơi lạnh bằng cách biến đổi trạng thái: đá
khô thăng hoa thành hơi, không qua trạng thái lỏng.
CO2 lỏng, đặc biệt
là nước đá khô( không độc hại), được ứng dụng thích hợp để bảo quản những sản
phẩm kỵ ẩm và dùng làm lạnh đông thực phẩm. Dùng đá khô để làm lạnh và bảo quản
gián tiếp các sản phẩm có bao gói nhưng có thể dùng làm lạnh và bảo quản trực
tiếp. Chính chất tác nhân làm lạnh này (CO2) đã làm ức chế sống của vi sinh vật,
giữ được vị ngọt-màu sắc hoa quả. Đồng thời hạn chế được tổn hao khối lượng tự
nhiên của sản phẩm do sự bay hơi từ bề mặt sản phẩm và các quá trình lên men,
phân hủy.
Áp dụng: Bảo quản
thực phẩm bằng cồn khô là cách rất tốt hiện nay. Giáo viên có thể hỏi học sinh
về ứng dụng của CO2 khi dạy phần tính chất vật lí của CO2 (Tiết 24 lớp 11CB).
VẤN ĐỀ 45: Tại sao khi đi gần các sông, hồ bẩn
vào ngày nắng nóng, người ta ngửi thấy mùi khai ?
Khi nước sông, hồ
bị ô nhiễm nặng bởi các chất hữu cơ giàu đạm như nước tiểu, phân hữu cơ, rác thải
hữu cơ… thì lượng urê trong các chất hữu cơ này sinh ra nhiều. Dưới tác dụng của
men ureaza của các vi sinh vật, urê bị phân hủy tiếp thành CO2 và amoniac NH3
theo phản ứng:
(NH2)2CO + H2O
→ CO2 + 2NH3
NH3 sinh ra hòa
tan trong nước sông, hồ dưới dạng một cân bằng động:
NH3 +
H2O → NH4+ + OH- ( pH < 7, nhiệt độ
thấp)
NH4+
+ OH-
→ NH3 + H2O ( pH > 7, nhiệt độ cao)
Như vậy khi trời nắng
( nhiệt độ cao), NH3 sinh ra do các phản ứng phân hủy urê chứa trong nước sẽ
không hòa tan vào nước mà bị tách ra bay vào không khí làm cho không khí xung
quanh sông, hồ có mùi khai khó chịu.
Áp dụng: Đây là hiện
tượng thường gặp quanh hồ, ao, nhất là vào mùa khô, nắng nóng. Giáo viên có thể
nêu vấn đề trong bài giảng “Amoniac”( Tiết 12-13 lớp 11CB) hay “phân urê” ( Tiết
18 lớp 11CB) nhằm giải thích hiện tượng tự nhiên này.
VẤN ĐỀ 46: Vì sao chất Florua lại bảo vệ được
răng ?
Răng được bảo vệ bởi
lớp men cứng, dày khoảng 2mm. Lớp men này là hợp chất Ca5(PO4)3OH và được tạo
thành bằng phản ứng:
5Ca2+ + 3PO43- + OH- →
Ca5(PO4)3OH (1)
Quá trình tạo lớp
men này là sự bảo vệ tự nhiên của con người chống lại bệnh sâu răng.
Sau các bửa ăn, vi
khuẩn trong miệng tấn công các thức ăn còn lưu lại trên răng tạo thành các axit
hữu cơ như axit axetic và axit lactic. Thức ăn với hàm lượng đường cao tạo điều
kiện tốt cho việc sản sinh ra các axit đó.
Lượng axit trong
miệng tăng làm cho pH giảm, làm cho phản ứng sau xảy ra:
H+ + OH- → H2O
Khi nồng độ OH- giảm, theo nguyên lí
Lơ-Sa-tơ-li-ê, cân bằng (1) chuyển dịch theo chiều nghịch và men răng bị mòn, tạo
điều kiện cho sâu răng phát triển.
Biện pháp tốt nhất
phòng sâu răng là ăn thức ăn ít chua, ít đường và đánh răng sau khi ăn.
Người ta thường trộn
vào thuốc đánh răng NaF hay SnF2, vì ion F- tạo điều kiện cho phản ứng sau xảy
ra:
5Ca2+ + 3PO43- +
F- → Ca5(PO4)3F
Hợp chất
Ca5(PO4)3F là men răng thay thế một phần Ca5(PO4)3OH
Ở nước ta, một số
người có thói quen ăn trầu, việc này rất tốt cho việc tạo men răng theo phản ứng
(1), vì trong trầu có vôi tôi Ca(OH)2, chứa các ion Ca2+ và OH- làm cho cân bằng
(1) chuyển dịch theo chiều thuận.
Áp dụng: Vấn đề
sâu răng và phòng ngừa sâu răng được mọi người quan tâm. Nhưng ít ai biết rằng
vì sao răng bị sâu và cơ chế phòng ngừa như thế nào. Học sinh sẽ rất tò mò về vấn
đề này. Giáo viên có thể đề cập vấn đề này trong bài giảng Khái niệm về
pH ( Tiết 5 lớp 11CB) hay ứng dụng của flo ( Tiết 43 lớp 10CB) nhằm giúp
cho học sinh có thói quen bảo vệ răng bằng cách đánh răng sau các bửa ăn.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét